Để đạt được và an trú trong sơ thiền, điều kiện tiên quyết là đoạn tận sáu pháp: dục tầm, sân tầm, hại tầm, dục tưởng, sân tưởng, và hại tưởng. Đức Phật nhấn mạnh rằng nếu không từ bỏ được sáu pháp này, chúng ta không thể chứng đắc thánh quả. Trong đó, ba pháp đầu tiên là những tà tư duy, cần hiểu rõ hai khái niệm cơ bản: tầm và tưởng.
1. Tầm là gì?
Tầm là một từ đồng nghĩa với "tư duy" trong A Tỳ Đàm, được gọi là "tâm sở tầm". Đó là những suy nghĩ khởi lên từ tâm.
Phân loại tầm:
Dục tầm: Là những suy nghĩ bị chi phối bởi đam mê và thích thú trong dục lạc thuộc năm trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc).
Sân tầm: Là những suy nghĩ bất mãn, phản kháng trước những điều trái ý nghịch lòng, cũng liên quan đến năm trần.
Hại tầm: Là ý muốn làm tổn hại, phá hoại, hoặc hủy diệt người hay vật, bắt nguồn từ sân hận.
Ví dụ về tầm:
Dục tầm: Chạy theo những điều mình khao khát, như mong muốn sở hữu tài sản, danh vọng, hay sắc đẹp.
Sân tầm: Trốn tránh điều mình ghét, như thời tiết khắc nghiệt, môi trường ô nhiễm, hoặc những người mình không ưa.
Hại tầm: Ý nghĩ ác ý, muốn thấy người khác đau khổ hoặc muốn phá hoại những thứ không hài lòng.
Phần lớn đời sống của chúng ta, nếu không tu học và chuyển hóa, là bị chi phối bởi ba tà tư duy này. Chính vì chạy theo dục vọng, trốn tránh nghịch cảnh, và ôm giữ tâm sân hận, chúng ta tự chuốc lấy khổ đau.
2. Tưởng là gì?
Tưởng là quá trình gán ghép ý nghĩa, thêu dệt lên những gì chúng ta trải nghiệm.
Trong đời sống, chúng ta có ba cách nhận thức:
Qua thức: Thông qua sáu giác quan (mắt thấy, tai nghe, mũi ngửi, lưỡi nếm, thân xúc chạm, ý suy nghĩ).
Qua tưởng: Thêm thắt ý nghĩa, ký ức, kinh nghiệm vào những gì giác quan nhận biết.
Qua trí: Nhận thức đúng bản chất của sự việc, phân biệt thiện ác, đúng sai.
Phân loại tưởng:
Dục tưởng: Là sự thêu dệt về những điều ưa thích, như đánh giá một bông hoa là đẹp, thơm, hoặc quý giá.
Sân tưởng: Là sự thêu dệt bất mãn, như cảm giác khó chịu với cái nóng, cái lạnh, hoặc hoàn cảnh bất như ý.
Hại tưởng: Là sự thêu dệt dẫn đến ý nghĩ phá hoại hoặc làm tổn thương người hay vật.
Ví dụ về tưởng:
Nhìn một bông hoa, thay vì chỉ thấy nó là một bông hoa, chúng ta thêu dệt thêm tên gọi, màu sắc, giá trị, và những ký ức liên quan. Khi nhìn hoa hồng thì ta lại cho hoa hồng đẹp hơn hoa Lan rồi muốn đem về trồng , cắt vào cắm trong nhà v..v
Thấy một người, thay vì chỉ biết họ là một con người, chúng ta đánh giá họ đẹp hay xấu, dễ thương hay đáng ghét.
3. Hiểu rõ tầm và tưởng để đoạn tận khổ đau
Sống bằng thức: Là thấy rõ sự vật như nó là, không thêu dệt thêm ý nghĩa. Tuy nhiên, với người phàm phu, sống đơn thuần qua thức thường bị xem là tẻ nhạt.
Sống bằng tưởng: Khi thêu dệt quá nhiều, chúng ta tự tạo ra dục vọng, sân hận, và phiền não không đáng có.
Sống bằng trí: Là thấy được bản chất của mọi hiện hữu – tất cả đều vô thường, vô nghĩa, và không đáng để nặng lòng theo đuổi hay chống đối.
4. Ý nghĩa rốt ráo của đời sống
Đức Phật dạy: "Ý nghĩa cao nhất của đời sống chính là nhận ra sự vô nghĩa của nó." Mọi hiện hữu đều phụ thuộc vào duyên. Khi duyên đủ thì mọi thứ xuất hiện; khi duyên tan thì mọi thứ biến mất. Nhận ra điều này, chúng ta không còn bám víu hay chống đối, từ đó đạt được sự bình an thực sự. Bản thân cái sự có mặt của mình đã là vô nghĩa rồi, chúng ta có thời gian đâu để mà theo đuổi, để mà nặng lòng, để mà cực lòng với cái vô nghĩa ấy của đời sống, khi bản thân mình đã là một khối vô nghĩa rồi. Cuộc đời vốn là phù du và chúng ta phải hiểu như thế là bởi vì không có cái gì tồn tại quá một sát na.
Nói tóm lại trong đời sống, chúng ta cần nhận thức rõ ràng về tầm và tưởng để không bị cuốn theo các vọng niệm, dục vọng và sân hận. Chỉ khi sống bằng trí, chúng ta mới thoát khỏi khổ đau và đạt được sự an lạc chân thật.
Phỏng theo pháp thoại sư Toại Khanh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét