Thứ Năm, 18 tháng 7, 2024

Mật Chú Theo Phật Giáo Tây Tạng

Đối với một số người, mật chú gợi lên hình ảnh của những âm tiết kỳ diệu. Người khác thì nghĩ về việc trì tụng mật chú như một hình thức cầu nguyện hay sùng mộ. Ngày nay, các đảng chính trị và thương hiệu thương mại quảng bá “mật chú” của họ dưới hình thức của các khẩu hiệu hấp dẫn. Tuy nhiên, không có điều nào trong số này là chủ ý của mật chú trong pháp tu nhà Phật. Trong đạo Phật, mật chú được sử dụng như những công cụ tinh vi để giúp ta phát khởi và tập trung vào những tâm trạng hữu ích, như lòng bi mẫn với người khác hay tư tưởng sáng suốt.

Mật chú là cụm từ của những từ ngữ và âm tiết được tụng đi tụng lại như một sự hỗ trợ cho việc chú tâm vào một tâm trạng ích lợi, giúp tâm thoát khỏi những trạng thái tiêu cực. Chữ mật chú trong tiếng Phạn được tạo thành từ gốc "man", có nghĩa là “tâm thức”, với hậu tố "tra", nghĩa là “công cụ” - mô tả một cách chính xác loại “công cụ tâm thức” mà mật chú đóng vai trò trong đạo Phật. Chúng cũng được tìm thấy trong tất cả các truyền thống tâm linh Ấn Độ khác, và hơn thế nữa. Người Tây Tạng hiểu chúng như một hình thức “bảo vệ tâm thức” - một công cụ để bảo vệ tâm trí thoát khỏi những tư tưởng và cảm xúc phiền não.

Khi được trì tụng bằng lời hay trong đầu, trong hay ngoài thời thiền, mật chú giúp cho tâm ổn định và duy trì chánh niệm trong một trạng thái tích cực. Ở đây, chánh niệm đề cập đến một nhận thức đóng vai trò như chất keo tinh thần, cột tâm ý vào câu mật chú và tâm trạng liên quan với nó, không cho tâm bị tán loạn hay hôn trầm.

Ta có thể đi xa hơn với pháp tu mật chú, sử dụng nó để kết hợp lời nói với thân và tâm. Chẳng hạn, nếu mình đi giúp đỡ hoặc an ủi ai, và muốn tạo ra cảm giác từ bi mạnh mẽ (mong cho họ thoát khỏi những vấn đề của họ), thì có thể tụng mật chú “om mani padme hum” (có lẽ là mật chú phổ biến nhất trong tất cả các mật chú trong đạo Phật) một cách nhẹ nhàng theo hơi thở, hay trong đầu. Điều này sẽ giúp ta tập trung vào lòng bi mẫn, và chuẩn bị để mình nói năng, cư xử một cách từ bi, trong khi cố gắng giúp đỡ người khác.

Một số mật chú chứa đựng những chữ tiếng Phạn, pha trộn với các âm tiết, trong khi một số chỉ chứa đựng các âm tiết. Các từ ngữ và âm tiết đại diện cho những khía cạnh khác nhau trong giáo lý nhà Phật, như trong ví dụ này về “om mani padme hum”:

Om – âm tiết này được tạo thành từ ba âm a, u và m, đại diện cho thân, khẩu, ý được thành tựu qua giác ngộ, và thân, khẩu, ý tầm thường của chúng ta, mà trước tiên thì những khiếm khuyết của chúng phải được tịnh hóa.

Mani – chữ này có nghĩa là “ngọc quý” và nó đề cập đến yếu tố đầu tiên, hay mặt phương tiện, trong hai yếu tố đem lại sự tịnh hóa nói trên. Trong bối cảnh này thì phương tiện là lòng bi, dựa vào đó mà mình có bồ đề tâm để đạt giác ngộ, để tạo lợi lạc cho tất cả chúng sinh càng nhiều càng tốt.

Padme – chữ này có nghĩa là “hoa sen”, đại diện cho yếu tố thứ hai, trí tuệ chứng ngộ tánh Không. Không tướng (tánh Không) là sự vắng bóng của những cách tồn tại bất khả dĩ. Thông thường thì mình phóng chiếu đủ điều vô nghĩa liên quan đến cách chúng ta, người khác và thế giới tồn tại như thế nào, nhưng những vọng tưởng này không tương ứng với thực tại. Chúng ta tin rằng những vọng tưởng này là đúng, rồi trở nên vị kỷ, và không thể phát triển lòng bi mẫn vị tha chân thành.

Hum – âm tiết này chỉ tánh bất khả phân, ở đây là giữa phương tiện và trí tuệ, sẽ đem đến giác ngộ, vì lợi lạc của tất cả chúng sinh.

Tuy nhiên, mật chú này, giống như hầu hết những mật chú khác, có những mức độ ý nghĩa khác nhau. Thậm chí, người ta có thể làm cho việc tu tập lòng bi hiệu quả hơn nữa, bằng cách hướng bài thiền về những người có những vấn đề cụ thể, trong khi trì tụng mật chú.


Theo Luận giải luyện tâm

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Biết Trách Ai Đây?

 Khi đọc xong bài viết “Biết Trách Ai Đây?” của sư Toại Khanh là một tùy bút đậm chất suy tư, chất chứa nỗi niềm trước cảnh đời éo le, những...