Trong kinh điển, quá trình chứng đắc giác ngộ của chư Phật luôn diễn ra theo một trình tự nhất quán. Trước khi đạt được giác ngộ, các Ngài phải lần lượt chứng các tầng thiền: từ Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, đến Tứ thiền trong sắc giới, rồi mới tiến vào các tầng thiền của vô sắc giới như Hư không vô biên, Thức vô biên, Vô sở hữu xứ, và Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Không ai có thể vượt qua trình tự này – từ vô sắc mà quay ngược về sắc giới – vì điều đó là không thể.
Ngay trước khoảnh khắc giác ngộ, chư Phật đều nhập vào Tứ thiền, lấy hơi thở làm đề mục. Từ trạng thái này, các Ngài thoát ra và quán chiếu 12 nhân duyên, lần lượt truy tìm nguồn gốc của sự hiện hữu: Tại sao có hơi thở? Tại sao có thân tâm, danh sắc này? Các Ngài vận dụng trí tuệ quán sát theo chuỗi 12 nhân duyên để thấy rõ bản chất của mọi sự tồn tại.
Tiến trình quán chiếu 12 Duyên Khởi
Khi quán chiếu, câu hỏi khởi đầu là:
Cái này từ đâu mà có?
Đáp: Do Sanh mà có.
Sanh từ đâu mà ra?
Đáp: Do Nghiệp hữu.
Nghiệp hữu do đâu mà có?
Đáp: Do Tứ Thủ (chấp thủ).
Tứ Thủ từ đâu mà ra?
Đáp: Do 6 Ái (dục ái, hữu ái, vô hữu ái…).
6 Ái do đâu mà có?
Đáp: Do 6 Thọ (cảm thọ lạc, khổ, không khổ không lạc…).
6 Thọ từ đâu mà ra?
Đáp: Do 6 Xúc (sự tiếp xúc giữa căn và trần).
6 Xúc từ đâu mà ra?
Đáp: Do Lục Nhập (6 căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý).
Lục Nhập từ đâu mà có?
Đáp: Do Danh sắc đầu đời (tâm và thân trong đời sống đầu tiên).
Danh sắc đầu đời từ đâu mà có?
Đáp: Do Tâm đầu thai.
Tâm đầu thai từ đâu mà ra?
Đáp: Do Nghiệp thiện ác trong quá khứ.
Nghiệp thiện ác từ đâu mà có?
Đáp: Do Vô minh.
Bản chất của Vô minh
Vô minh là không thấu hiểu bản chất thật của khổ. Không biết rằng:
Mọi hiện hữu đều gắn liền với khổ.
Tất cả hỷ, ưu, lạc, đau đều là khổ.
5 uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức), 12 xứ, 18 giới đều là khổ.
Vì không thấu hiểu Khổ đế, chúng sinh không nhận ra nguyên nhân dẫn đến khổ (Tập đế), và tiếp tục bám víu, đầu tư vào những điều gây khổ. Hành trình chấm dứt khổ (Đạo đế) đòi hỏi sự đoạn trừ hoàn toàn Tập đế, dẫn đến sự an lạc của Diệt đế. Thiếu hiểu biết về bốn chân lý này chính là Vô minh.
Quán duyên khởi theo chiều ngược
Sau khi quán theo chiều thuận để thấy rõ gốc rễ của sự hiện hữu, chư Phật quán ngược lại:
Khi Vô minh diệt, không còn bất tri về Tứ Diệu Đế.
Khi không còn tạo nghiệp thiện ác, không còn tái sinh.
Không tái sinh thì không có 6 căn, không có sự tiếp xúc giữa căn và trần.
Không có xúc thì không có thọ, không thọ thì không ái.
Không ái thì không thủ, không thủ thì không nghiệp hữu.
Không nghiệp hữu thì không có sanh hữu, không sanh hữu thì không có già, bệnh, chết.
Không già bệnh chết thì không còn sầu bi khổ ưu não.
Khi quán chiếu theo chiều thuận và ngược như vậy, chư Phật đạt đến giác ngộ, thấy rõ bản chất thật của vạn pháp.
Tại sao chúng ta không giác ngộ?
Mặc dù hiểu rõ lý thuyết, chúng ta chưa đủ Ba La Mật để chứng đạt như chư Phật. Thí dụ một đứa bé mình cho nó học thuộc lòng bài viết về mô tả về cà phê: nguồn gốc cà phê, của bột cà phê, cách pha chế cà phê bằng các loại máy khác nhau, có xuất xứ ở đâu, rồi hương vị cà phê được mô tả bằng tất cả hình dung từ như thế nào, thì một đứa bé hoàn toàn có thể làm được chuyện đó. Đứa bé có thể nói rào rào rào rào, nhưng phải đợi khi nào nó uống cà phê nó mới hiểu cà phê là cái gì, còn bây giờ thì nó chỉ học thuộc lòng rồi nhắc ra vậy thôi.Cũng như chúng ta nếu chỉ học thuộc lòng thì không thể hiểu hết vậy Trí tuệ của chúng ta giống như một đứa trẻ chỉ học thuộc lòng mô tả về cà phê: biết nguồn gốc, cách pha chế, hương vị... nhưng chưa từng nếm thử. Chỉ khi nào trực tiếp trải nghiệm, chúng ta mới hiểu được bản chất thực sự.
Bài giảng của sư Toại Khanh được viết lại theo sự hiểu biết của tôi. Nguyên văn tìm thấy trong trang web của sư
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét