Thứ Năm, 29 tháng 2, 2024

Có phải hôn nhân là mồ chôn của tình yêu ?

 

Hôn nhân có phải là mồ chôn của tình yêu không?. Đây là một câu hỏi khá thú vị cho những cặp tình nhân đang say đắm trong tình yều mà muốn cùng nhau xây dựng hạnh phúc gia đình. Khi nhắc đến hôn nhân, rất nhiều người trong chúng ta đều nghĩ rằng "hôn nhân phải đi đôi với tình yêu" và họ tin rằng hôn nhân sẽ không tồn tại nếu không đến với nhau bằng tình yêu. Tuy nhiên rất nhiều cặp đôi đã đánh mất tình yêu của mính sau khi kết hôn. Cuối cùng quan hệ vợ chồng chỉ là vì gia đình , con cái hoặc là không muốn phân chia tài sản . Có lẽ đây là một điều đáng tiếc nhât trong hôn nhân khi hai người đã đánh mất đi cảm xúc lãng mạn của tình yêu thưở ban đầu.

Chúng ta hảy cùng phân tích về đề tài này dựa vào lý thuyết "Tam giác tình yêu" của Robert J. Sternberg. Ông ta cho thấy rằng các hình thái của tình yêu được cấu thành từ ba yếu tố khác nhau tương ứng với ba đỉnh của một tam giác trong đó bao gồm:

1-Sự đam mê/say đắm (passion) là sự lôi cuốn, hấp dẫn về ngoại hình, thể xác và dẫn đến sự thỏa mãn về mặt tình dục.

2-Sự thân mật (intimacy) là cảm giác gần gũi và gắn kết với đối phương.

3-Tận tuỵ/Cam kết (commitment) là quyết định ở lại bên cạnh "nửa kia" và cùng hướng tới những mục tiêu chung.

Đôi khi có nhiều người dễ nhầm lẫn sự đam mê và sự thân mật. Trên thực tế, sự thân mật trong tình yêu không hẳn là sự gần gũi về mặt thể xác (điều này vốn thuộc về sự đam mê), mà chính là cảm giác rằng chúng ta có thể chia sẻ cùng với người yêu hay là người bạn đời những chuyện mà mình gần như không thể chia sẻ cho bất kỳ ai khác . Nếu chúng ta không làm được điều này, mối quan hệ vẫn sẽ bị xem như thiếu đi sự thân mật.


Từ ba yếu tố trên, Sternberg đã liệt kê ra 8 loại hình tình yêu, mà đặc biệt trong đó, một tình yêu hội tụ đủ ba yếu tố là tình yêu lý tưởng, hay tình yêu trọn vẹn (consumate love) và khi giữa hai người không có bất kỳ yếu tố nào để cấu thành tình yêu, mối quan hệ được xem như không có tình yêu, hay vô ái (non-love). Vậy theo lý thuyết của Sternberg, đâu mới là cuộc hôn nhân không tình yêu?

Đối với hôn nhân, chúng ta chỉ có thể xác định được một yếu tố cố định là sự cam kết của hai người. Đây chính là tiền đề để hình thành cuộc hôn nhân. Việc thiếu vắng yếu tố đam mê hoặc thân mật đều có thể dẫn đến kết cục hôn nhân không tình yêu. Như vậy, ngoại trừ các cuộc hôn nhân với tình yêu trọn vẹn, bất kể hình thái cuộc hôn nhân có là bầu bạn, cuồng dại hay trống rỗng thì chúng ta đều có thể hiểu đó là cuộc hôn nhân không tình yêu.

Hôn nhân không tình yêu, xét theo Thuyết Tam giác Tình yêu của Sternberg, xuất hiện khi hai người đồng lòng cam kết về việc kết hôn với nhau, mà lại thiếu đi một hoặc nhiều yếu tố khác cấu thành nên tình yêu trọn vẹn.

Dù một tình yêu cuồng dại là sự kết hợp giữa đam mê và cam kết của hai người dành cho nhau, nhưng một khi cả hai gắn bó mà không thể cùng chia sẻ những bí mật và tâm tư sâu nhất, thì dù sớm hay muộn, tình yêu cũng có thể có dấu hiệu của sự tan vỡ.

Sự tan vỡ này đều xuất phát từ những kỳ vọng của một người dành cho một người. Điều này luôn xuất hiện đôi khi trước hôn nhân nhưng trở nên nặng nề hơn khi hai ngưòi trở thành vợ chồng 

Trước khi kết hôn, khi tình yêu lãng mạn (với hai yếu tố là đam mê và thân mật) còn nồng cháy, chúng ta sẵn sàng nói tiếng yêu của nửa kia để bộc lộ tình yêu của mình tới họ, hay nói cách khác, chúng ta thoải mái với phương thức thể hiện sự thân mật của nhau. Khi yêu và nhận lại được tình yêu mà mình mong muốn, bộ não chúng ta sản sinh ra rất nhiều dopamine - hormone khiến mỗi người cảm thấy thoải mái . Chắc chắn, chúng ta ít nhiều mong muốn rằng mình và người ấy vẫn có thể tiếp tục... hạnh phúc mãi mãi về sau.

Tuy nhiên, sau khi đã kết hôn, khi trách nhiệm và nghĩa vụ lên tiếng, cả hai đã an phận với danh nghĩa mới, nửa kia không cần phải bộc lộ tình yêu như trước để chúng ta thêm yêu họ nữa. Thế là, tình yêu lãng mạn mà cả hai đã có trước hôn nhân giờ theo ngày tháng đã không còn.

Việc kết hôn khiến một trong hai người, hoặc cả hai người, nhận ra sự khác biệt về những khía cạnh mà chỉ khi sống chung mới nhận thấy được. Lúc còn yêu nồng cháy, ai cũng cố gắng trông chỉn chu và hoàn mỹ, nhưng khi sống chung, những điểm "xấu" nhất của một người được một người khác nhìn thấy, và không phải lúc nào, ai cũng sẵn sàng chấp nhận. Trong nhiều trường hợp mà qua thời gian, một hoặc cả hai người mất dần lửa tình yêu, không còn nồng nàn như trước khi kết hôn. Đến một lúc, đời sống hôn nhân không còn chút nào yêu thương.

Một nhân tố quan trọng trong hôn nhân giữa hai người chính là con cái. Khi con cái xuất hiện, tình yêu giữa hai người xuất hiện thêm trách nhiệm và nghĩa vụ với chúng. Đồng nghĩa, tương tác giữa hai người sẽ thường là vì con và gia đình nói chung chứ không phải vì nhau nữa.

Khi tình yêu không còn cuồng nhiệt khi lúc mới hẹn hò, chúng ta ít đam mê và cũng ít thân mật với nhau hơn. Nếu không "bồi đắp" thêm cho những yếu tố này, chúng ta rất dễ sa vào tình trạng hôn nhân trống rỗng, tức là chỉ có cam kết từ đôi bên.

Nhiều cặp vợ chồng khi về già không còn yêu cuồng nhiệt, thậm chí là ngủ phòng riêng và không có tương tác liên quan tới tình dục, vẫn cam kết sống cùng nhau và chia sẻ với nhau được nhiều điều trong cuộc sống. Dạng hôn nhân bầu bạn này có thể được xem như tình yêu trong suy nghĩ người này, nhưng lại là hôn nhân không tình yêu theo quan điểm của người khác. Và nếu vậy thì liệu chúng ta còn dạng hôn nhân không tình yêu nào nữa không? 

Bên cạnh các hình thái tình yêu kể trên, chúng ta cần chú ý rằng: sau khi kết hôn, chất lượng của cuộc hôn nhân những đánh giá chủ quan về mối quan hệ của cặp vợ chồng, dựa trên một số khía cạnh khác nhau; sự điều chỉnh trong hôn nhân là mức độ mà người vợ và người chồng thích nghi với nhau sau một khoảng thời gian nhất định; sự hài lòng trong hôn nhân là sự đánh giá khái quát của một người về cuộc hôn nhân của chính người đó.


Kết luận 


Tình yêu và hôn nhân tuy hai nhưng lại là một. Chất lượng của tình yêu và cuộc sống sau khi kết hôn sẽ do hai người trong cuộc xây dựng hàng ngày. Hôn nhân không phải là mồ chôn của tình yêu mà đôi khi tình yêu đã tự nó kết thúc sau một thời gian dài sống chung.  Cuộc sống hôn nhân sẽ được ví như một vỡ kịch dài mà mỗi người trong đó đều phải diễn tốt vai diễn của minh.


"Những gia đình hạnh phúc thì đều giống nhau, nhưng những gia đình bất hạnh thì lại mỗi nhà mỗi cảnh" - Leo Tolstoy.



Thiên Lan sưu tầm 

Luân Hồi Đem Lại Khổ Đau, Phật Pháp Đem Lại Hạnh Phúc

Tất cả chúng sinh trên cuộc đời này đều muốn có hạnh phúc và không muốn khổ đau. Vì thế Phật pháp dạy các phương tiện để chúng sinh diệt khổ và có được an lạc. Theo nghĩa đen, Phật pháp mà chúng ta tu tập là những điều giữ gìn ta. Việc này có thể được giải thích theo nhiều cách. Hiểu giáo lý đạo Phật giúp ta tránh xa nỗi khổ và chứa đựng tất cả cội nguồn của an lạc.

 Chúng Ta có thể có sự an lạc của thân hay tâm. Đồng thời chúng ta cũng có hai loại khổ: nỗi khổ về thân xác và nỗi khổ tinh thần. Dù đa số chúng ta mong có được hạnh phúc, nhưng chúng ta lại không hiểu biết gì về những phương tiện để đạt được điều này. Những phương tiện mà ta thường  sử dụng lại đưa chúng ta đến nỗi khổ nhiều hơn.

Một số người làm nghề trộm cắp và giết chóc để sinh nhai. Họ nghĩ điều này sẽ mang lại hạnh phúc cho họ. Thật sự thì không phải vậy. Nhiều người khác cố gắng để đạt được hạnh phúc bằng cách làm một thương gia, một nông dân hay các ngành nghề khác v.v…, trong khuôn khổ của luật pháp. Nhiều người trở nên rất giàu có và nổi tiếng bằng các phương tiện này. Loại hạnh phúc này không trường tồn miên viễn; nó không là niềm an lạc cứu cánh. Dù ta có bao nhiêu niềm hạnh phúc hay tài sản đi nữa, ta sẽ không bao giờ hài lòng rằng ta đã có đầy đủ. Thậm chí nếu ta làm chủ cả một quốc gia, ta vẫn muốn có nhiều hơn(điều này đã đưa đến chiến tranh để chiếm lảnh thổ của quốc gia khác ).

Những việc mà ta thực hiện để đạt được hạnh phúc sẽ không bao giờ chấm dứt. Chúng ta cố gắng đi đến các nơi bằng những phương tiện nhanh nhất mà ta có, như sử dụng xe cộ, v.v…, nhưng sự theo đuổi hạnh phúc theo cách này không có điểm chấm dứt. Đó là lý do người ta nói sự hiện hữu trong luân hồi là bất tận, nó chỉ đi lẩn quẩn, vòng quanh mà thôi. Tất cả chúng ta đều có thể thông hiểu điều này, rằng những sự theo đuổi các những ham muốn của thế gian sẽ không bao giờ chấm dứt.

Một bông hoa tươi đẹp khi nó còn mới, rồi héo tàn theo thời gian. Bất cứ điều gì mà chúng ta đạt được trong cuộc đời này, đều sẽ chấm dứt. Nó sẽ đi đến một kết cuộc khi thời gian trôi qua mãi, đến cuối cuộc đời này, khi mà ta sẽ trải qua nỗi khổ tột cùng. Ví dụ như một chiếc xe hơi. Quý vị đi ngang qua một bãi xe cũ, nơi mà những chiếc xe hơi cũ bị phế thải. Đây là kết cuộc của chúng, trong một tình trạng mà mọi thứ đã biến thành rác. Thậm chí khi chiếc xe còn tốt, thì chúng ta đã lo lắng về điều này. Chúng ta lo là các bộ phận xe sẽ hư, lo về tiền thuế và bảo hiểm v.v. và v.v… Chúng ta có thể mở rộng thí dụ này đến tất cả những của cải vật chất mà ta sở hữu. Càng có nhiều của cải thì ta càng lo lắng nhiều hơn.


Giáo lý đạo Phật đã chỉ cho chúng ta rằng để đạt được một niềm an lạc nào đó, ta không phải lao lực, mà cần phải làm việc bằng tâm thức của mình. Tuy nhiên, tâm thức có một dòng tương tục, thậm chí tiếp nối trong những kiếp tương lai và từ những đời quá khứ. Trong mỗi kiếp sống, ta có một thân thể và cố gắng tạo ra hạnh phúc cho thân thể ấy, nhưng khi ta chết, thì tâm thức vẫn tiếp nối. Vì thế, niềm hạnh phúc ta nên mong cầu không chỉ rộng lớn và vững vàng, mà còn phải kéo dài trong tất cả những kiếp sống tương lai và không bị gián đoạn trong sự tương tục của dòng tâm thức.


Bất kể loại hành động nào mà ta thực hiện, có tính cách xây dựng hay không chăng nữa, vẫn không phải là Pháp, nhưng nếu ta hoàn tất những hành vi tích cực vì lợi lạc cho những kiếp vị lai, thì đó chính là Pháp.


Hạnh phúc hay bất hạnh đến từ những hành vi của chúng ta. Về mặt các hành nghiệp này, hành vi tiêu cực sẽ mang đến kết quả tiêu cực, và hành vi tích cực sẽ mang lại kết quả tích cực. Bất cứ điều gì ta có thể làm tốt trong kiếp sống này, như trồng trọt và v.v…, đều là kết quả của những hành vi tích cực mà ta đã tạo ra trong những tiền kiếp. Nếu ta đau yếu, hay cảm thấy bất hạnh, hoặc có đời sống ngắn ngủi, thì đây là kết quả của những hành vi tiêu cực mà ta đã tạo ra trong quá khứ.


Thí dụ, có hai người thương gia, một người thành công và người kia thì không. Đây là do nghiệp báo của kiếp trước. Ta có thể thấy hai thương gia, một người làm việc rất hăng say nhưng không thành công, trong khi người kia không phải làm việc cực nhọc, nhưng lại rất thành công. Một thí dụ khác, nếu chúng ta giết hại chúng sinh, thì chúng ta sẽ có thọ mạng ngắn ngủi và hay đau ốm. Cho nên chúng ta phải tránh tạo ra những hành vi tiêu cực này, để không tái sinh vào những cảnh giới thấp hơn, mà sẽ tái sinh thành một con người hay trong cảnh giới chư thiên.


Tuy nhiên thậm chí nếu chúng ta được sinh ra làm một con người hay một chư thiên, điều này cũng không mang đến niềm hạnh phúc viên mãn cho chúng ta – vì tất cả đều mang bản chất của khổ. Tại sao lại như thế? Nếu chúng ta có được một vị trí cao, thì sẽ rơi xuống một chỗ thấp; nhưng nếu chúng ta đang ở trong vị trí thấp, chúng ta sẽ vươn lên một vị trí cao hơn. Những sự kiện này đều là mầm mống tạo ra nhiều đau khổ. Thí dụ, nếu chúng ta đói, chúng ta sẽ ăn; nhưng nếu như ăn quá nhiều thì chúng ta  sẽ cảm thấy khó chịu. Nếu chúng ta lạnh, chúng ta sẽ mở máy sưởi, rồi lại cảm thấy quá nóng; thế là phải hạ nhiệt độ của máy sưởi xuống. Chúng ta có đủ các loại khổ như thế.

Luân hồi là sự hiện hữu tái diễn ngoài vòng kiểm soát bao gồm những loại khổ này. Nó là kết quả của nghiệp cùng các loại phiền não khác nhau. Chúng ta cần phát triển trí tuệ chứng ngộ tánh Không hay vô ngã.

Chúng ta có thể chấm dứt vòng luân hồi của bản thân mình, nhưng chỉ đạt được điều này thì không đủ, bởi vì không có ai tử tế với chúng ta bằng tất cả chúng sinh. Các sản phẩm bơ sữa mà ta có được là nhờ vào lòng tốt của các thú vật. Nếu chúng ta thích ăn thịt, thì ta có được các thực phẩm này là vì những con vật đã bị giết trong khi chúng vẫn còn khỏe mạnh. Vào mùa đông, chúng ta mặc áo da và áo len, là những thứ đều do thú vật cung cấp. Chúng rất tốt lành, vì chúng đã cung cấp những sản phẩm này cho ta. Chúng ta cần phải đền đáp lòng tử tế của tất cả chúng sinh bằng cách tự mình đạt được Phật quả – rồi thì ta có thể hoàn thành ước nguyện của chúng sinh. Để đạt được các mục tiêu của chúng sinh thì chúng ta phải cố gắng tu tập để tự mình phải trở thành một vị Phật.


Để thật sự trở thành một vị Phật ta sẽ thực hiện điều này bằng cách tu tập theo Phật pháp. Ở Ấn Độ, có những bậc đại thành tựu giả (mahasiddhas) mà chúng ta đã có những sử tích về cuộc đời của tám muơi vị, nhưng thật sự thì có vô số các vị như thế. Các ngài đã đạt giác ngộ ngay trong một kiếp người. Ở Tây Tạng, có thí dụ về ngài Milarepa, và nhiều vị đại sư cao cả khác từ các trường phái Kagyu, Nyingma, Sakya và Gelug.

Một khi ta đạt được quả vị của một vị Phật, các nỗ lực đối với việc thực hành Pháp đi đến sự kết thúc. Việc tu tập theo giáo pháp rất khó khăn vào lúc đầu, nhưng nó sẽ dần dần trở nên dễ dàng hơn, và ta sẽ cảm thấy hạnh phúc và an lạc hơn, khi ta tiếp tục dấn thân trên con đường tu tập. Ta sẽ hoàn tất việc tu tập Pháp ở một trạng thái an lạc viên mãn. Các hoạt động của thế gian chỉ mang lại thêm nỗi khổ cho ta mà thôi.


Thí dụ như khi người ta chết, đời sống của họ đi đến cực điểm hay sự kết thúc bằng cái chết, không chỉ khiến cho riêng họ mà những người còn sống cũng phải ưu sầu và đau khổ, ví dụ như trong đám tang của họ. Chúng ta cần nghĩ về điều này và áp dụng một cách tu tập nào đó. Nếu ta tiếp cận cực điểm hay điểm kết thúc của sự hành trì Pháp bằng thành tựu giác ngộ thì điều này sẽ đem đến an lạc mà thôi, không chỉ cho chúng ta mà cho tất cả những người khác.

Ta cần tránh vi phạm mười nghiệp bất thiện. Nếu ta tạo ra hành vi tích cực, ta sẽ có được hạnh phúc, và nếu ta có hành vi tiêu cực, ta sẽ nếm trải sự bất hạnh. Ta cần phải xem xét kết quả của những hành động của mình và xem tâm mình là nguyên nhân của các hành vi ấy. Khi ta quán sát tâm, ta sẽ thấy mình có ba loại phiền não độc hại: tham, sân và si.

Từ tam độc này, ta có 84 000 loại phiền não. 84 000 vọng tưởng này là những kẻ thù chính yếu của ta, vì thế ta nhìn vào bên trong, chứ không phải chung quanh ta, để thấy những kẻ thù của mình. Trong 84 000 phiền não này, những phiền não chính là tam độc đã nêu ra ở trên, và loại độc hại nhất là vô minh hay si mê trong dòng tâm thức của chúng ta.

Tóm lại, ta cần nhìn vào nội tâm của mình và cố gắng tận diệt những kẻ thù nội tại này. Đó là ý do mà các tín đồ Phật giáo được gọi là “người trong cuộc” (nang-pa), vì họ luôn luôn nhìn vào nội tâm mình. Nếu ta tiêu diệt được những phiền não này trong dòng tâm thức tương tục của mình, thì ta sẽ chấm dứt tất cả những khổ đau của bản thân. Một người dụng công để thực thi điều này được xem là một người tu tập theo Phật pháp.

Sự tu tập của một cá nhân nhằm loại trừ phiền não cho riêng người ấy là hành vi tu tập Pháp của Tiểu thừa. Nếu ta tu tập để loại trừ vọng tưởng của mình không chỉ để chấm dứt khổ đau cho bản thân, mà còn thấy tha nhân quan trọng hơn và vì vậy cố gắng để vượt thắng vọng tưởng của chính mình để có thể giúp họ tiêu trừ phiền não trong tâm thức họ, thế thì ta là những hành giả Đại thừa. Dựa trên nền tảng hoạt động của thân thể này, chúng ta cần nỗ lực để trở thành những hành giả Đại thừa, và kết quả là ta có thể đạt được tâm giác ngộ của một vị Phật.

Điều chính yếu là luôn luôn cố gắng tạo lợi lạc cho mọi người và đừng bao giờ làm hại bất cứ ai. Thân thể mà ta có được như một nền tảng hoạt động rất khó có được, bởi vì được sinh ra làm con người không phải là điều dễ dàng. Thí dụ, ta hãy nhìn vào địa cầu này. Phần lớn của nó là đại dương, và hãy nghĩ có bao nhiêu cá trong các đại dương này. Số lượng lớn nhất của sự sống là thú vật và côn trùng. Nếu ta nghĩ về cả hành tinh và số lượng của thú vật cũng như côn trùng, ta sẽ thấy sự hiếm hoi của việc sinh ra làm một con người.


Phỏng theo pháp thoại Thiền sư Tsenshap Serkong Rinpoche 

Thứ Tư, 28 tháng 2, 2024

Muốn Bình yên trong cuộc sống chỉ cần luyện tâp một vài đức tính

 


Chúng ta đang sống trong một thế giới đầy bất trắc vì mọi người đều cùng mong muốn tranh dành đấu đã lẫn nhau trên thương trường. Muốn có đựoc những thời khắc bình yên trong cuộc sống thì các bạn phải tập theo một vài cá tính sau :

-Đừng tham gia vào những cuộc tranh cãi
-Ngừng phán xét người khác
-Tập nói “cảm ơn”
-Cười nhiều hơn
-Đừng quá lo lắng vào tương lai
-Đầu tư vào bản thân
-Tha thứ cho người khác
-Ngừng chỉ trích bản thân

Đôi khi bạn tranh cải với mốt số ngưòi mà không đi đến kết quả chỉ vì họ và bạn không có điểm chung nào hết. Điều nảy chỉ làm cho bạn thêm phiền muộn nên tránh xa là tốt nhất.
Ngừng phán xét người khác chỉ vì họ sẽ không giống bạn nên phán xét người khác là một điều tồi tệ. Nó chỉ làm cho bạn hạ thấp bản thân của mình mà thôi. Ghi nhớ một điều "nhân vô thập toàn"
Lời cảm ơn thật rất dễ nhưng có rất nhiều người không bao giờ biết nói lời cảm ơn. Ví dụ thật đơn giản như khi bạn nhận được môt món quà của ai đó thì hảy gọi điện thoại cho người đó và nói lời cám ơn
chúng
Chúng ta có môt thói quen đó là không ngừng lo lắng về tương lai mặc dù tương lai thì chưa tới. Điều này sẽ làm cho cuộc sống của bạn không bao giờ có được sự bình yên. Hảy tập trung sống ở giây phút hiện tại bởi vì không ai có thể đoán được ngày mai sẽ ra sao
Đầu tư vào bản thân là một cách để bảo đảm bạn luôn học hỏi những điều mới lạ. Nó sẽ giúp bạn tự tin hơn trong cuộc sống.
Có câu nói rất hay "tha thứ cho người khác chính là tha thứ cho bản thân mình". Những chuyện không vui thì hảy để nó qua đi
Trên đường đời có ai mà không gặp lúc khó khăn. Làm hòng việc một vài lần là bình thường. Đừng vì vậy mà cứ trách hoài bản thân 

Ngoài ra giữ gìn nhà cửa sạch sẽ có thể giúp bạn có cuộc sống bình yên bởi vì nó giúp giảm nguồn gốc gây khó chịu tiềm ẩn như rác, vết bẩn, vết đốm và một số mùi ẩm mốc gây ra. Có đôi lúc khi bạn cảm thấy cơn phiền muộn sắp ập đến , thì hảy đứng lên và vệ sinh nơi bạn ở. Điều này sẽ giúp bạn quên đi thời gian và bạn sẽ cảm thấy dễ chịu hơn khi nhìn thấy sự sạch sẽ gọn gàng chung quanh bạn.

Thứ Ba, 27 tháng 2, 2024

Đối diện với lời phê phán, chỉ trích.

 

Chúng ta hay có những phản ứng rất mạnh mẽ khi bị người khác phê bình hoặc là chỉ trích. Cho dù đúng hay sai thì đều có cách để giải quyết toàn vẹn. Để có một thái độ cho hợp lý thì bạn hảy nhớ lời trong nhà Phật dạy " con người dù phải gió thổi tám hướng cũng không động ". Chữ "Nhẫn" chính là lúc chúng ta nên dùng đĐối với những lời phê phán, chỉ trích, nói xấu bôi nhọ, hảy nhẫn nhịn bình tâm và không làm gì cả.

Có một câu thành ngữ là “Hô ngưu hô mã”, nghĩa là dù người khác có chửi bới, hay khen ngợi, cũng không buồn so đo. Thành ngữ này bắt nguồn từ một câu chuyện mà Trang Tử kể.

Có một người tự nhận mình là thông thái, tên là Sĩ Thành Khởi. Ông ta thường nghe mọi người khen ngợi Lão Tử có trí tuệ siêu nhiên vượt bậc, vậy là vượt chặng đường dài đến bái kiến Lão Tử.

Thấy nhà của Lão Tử bừa bộn như ổ chuột, thì tức giận nói: “Nghe mọi người nói ngài là thánh nhân trí tuệ cao siêu, ta băng qua mấy trăm dặm đường đến gặp ngài, không ngờ ngài chẳng khác gì con chuột!”.

Lão Tử nghe xong không hề có phản ứng. Sĩ Thành Khởi chửi xong liền bỏ đi. Hôm sau, ông ta cảm thấy mình có lỗi, bèn đến xin lỗi Lão Tử.

Lão Tử điềm nhiên nói: “Thánh nhân với không thánh nhân gì chứ, thứ danh hiệu ấy ta sớm đã vứt bỏ nó như chiếc giày rách rồi. Ta nếu đã đắc được đại Đạo, thì dù ngươi có chửi ta là trâu, là ngựa, là chuột, thì cũng có quan hệ gì chứ? Ta vẫn là ta”.

Người sống trên thế gian, khó tránh khỏi có lúc bị người khác tức giận, phê phán chỉ trích, thậm chí là vu khống bôi nhọ, nếu bạn vì thế mà tức giận, thì thật là không đáng!

Trong kinh Phật nói, con người phải gió thổi tám hướng cũng không động. Đối với sự phỉ báng của người khác, càng phản ứng kịch liệt thì càng không có hồi kết, chi bằng cứ án binh bất động, coi như nước đổ lá khoai!

Trang Tử có một ví von khá thú vị chính là tâm thái “thuyền không”. Nếu như bạn đang ngồi chèo thuyền, có một chiếc thuyền khác đi qua, người trên thuyền không giỏi chèo lái, đâm vào thuyền của bạn,lúc này rất có thể bạn sẽ tức giận.

Nhưng nếu trên chiếc thuyền đó không có người, là một chiếc thuyền trống không, gió thổi tới, liệu bạn có tức giận không?

Căn bệnh phổ biến của mọi người đó là quá đề cao bản thân, quá coi trọng chính mình, tự coi mình là cái rốn vũ trụ.

Quá coi trọng bản thân, sẽ dễ tranh chấp với mọi người, nếu như có tâm thái “thuyền không”, vậy thì cuộc đời sẽ bớt đi tranh giành, con người sẽ bớt tức tối nổi giận.

Có nhiều chuyện trong cuộc sống, chỉ dựa vào việc tức giận sẽ không giải quyết được vấn đề, thản nhiên vứt bỏ, không tự cho mình là trung tâm, sẽ dễ dàng hóa giải mọi mâu thuẫn. Trong đạo Phật gọi là "vô ngã" chính là không cái gì là của ta, của tôi chính là lý lẽ để đối phó với những lời thị phi.

Thứ Hai, 26 tháng 2, 2024

Tại sao Màu xám là con đường dẫn đến sự trọn vẹn.

Bài viết này chỉ là quan điểm cá nhân của tác giả. Cô cho rằng "Vẻ đẹp của hiện tượng tự nhiên là sự tồn tại cho mỗi khoảnh khắc.

Tôi giới thiệu bài viết này vì tôi cũng đồng cảm với suy nghĩ của cô. Theo giáo lý đạo Phật thì chúng ta không thể nào tránh khỏi sự "hoại diệt" trong đời sống , vì thế khi chúng ta chấp nhận sự thay đổi đang đến dần với cơ thể của chúng ta để sống một cách dịu dàng với chúng thay vì những cảm giác khó chịu..


Trong một cuộc thăm dò năm 2022 với 2.000 phụ nữ ở độ tuổi 42-57, một nửa nói rằng trong 2 đến 6 năm trước, họ nhuộm tóc khác với màu bẩm sinh. Và một phần cho biết họ thậm chí không chắc màu sắc tự nhiên của mình là gì nữa.

Có điều gì đó u sầu trong thống kê thứ hai đó, điều gì đó rất buồn khi chúng ta thay đổi khi không biết điều gì đó quá riêng tư về bản thân.

Cũng lạ thật. Tôi đã nhuộm tóc trong ba thập kỷ để trông giống chính mình hơn. Mái tóc bạc bắt đầu lộ ra trước tuổi 30 dường như không phải là “tôi” mặc dù thực tế đó là tôi. Tôi vẫn chưa sẵn sàng cho việc đó của "Tôi bây giờ".

Đối với một số người trong chúng ta, màu sắc tự nhiên mà chúng ta che giấu hoặc giấu đi là màu xám, bạc hoặc trắng hoặc sự kết hợp của những màu đó cộng với màu vàng, tóc nâu hoặc đỏ. Nghiên cứu cho chúng ta biết rằng sự thay đổi màu tóc là do sự thay đổi trong quá trình sản xuất melanin và sự biến đổi của chính cấu trúc tóc. Những thay đổi này làm thay đổi diện mạo của tóc, bao gồm cả màu xám.

Đây là một phép ẩn dụ hoàn hảo cho những thay đổi cũng diễn ra về mặt tâm lý, khi tóc bạc mọc lên và được phép bộc lộ. Đây là một hành động tự chấp nhận và chấp nhận những gì chúng ta không thể kiểm soát - được phép nhìn thấy, không phải bởi xã hội mà bởi cá nhân cuối cùng cũng nhìn thấy chính mình. Có điều gì đó—đúng hơn là ai đó—đang được biến đổi. Đó là bước quan trọng để làm cho màu xám hiển thị. Nó phản ánh một sự thay đổi bên trong cũng như một trải nghiệm bên ngoài đã thay đổi.

Tôi không hạ giá màu tóc của một người. Tôi tô màu của tôi và tôi thích nó. Rất nhiều phụ nữ trẻ hơn tôi đang để tóc bạc sớm hơn nhiều so với những gì tôi có thể tưởng tượng. Nó làm tôi nhớ lại ngày tôi ngừng cố gắng duỗi mái tóc xoăn tự nhiên của mình bằng máy sấy khi tôi 17 tuổi. Tôi vẫn có quyền tự do để tóc tự nhiên như vậy. Tôi cảm thấy may mắn vì tôi đã học được điều này cho chính mình khi còn trẻ vì tôi tưởng tượng nhiều người trẻ tuổi cảm thấy để tóc bạc của mình mọc tự nhiên mà không tô màu.

Việc để mái tóc bạc dài ra đã khiến tôi nhìn nhận bản thân mình một cách khác, chứ không chỉ nhìn hình ảnh phản chiếu của mình trong gương. Nó dẫn tôi đến con đường nhìn nhận bản thân từ bên trong, tất cả những phần mà tôi đã vô tình che đậy để cố gắng thuộc về. Tại một thời điểm nào đó, sau khi nhuộm tóc suốt ba thập kỷ, tôi đã đạt đến mức sẵn sàng nhìn về phía trước thay vì quay lại. Mỗi chúng ta đều có một cái tôi cố hữu bao gồm cách tóc mọc, tiến hóa và thay đổi theo thời gian, nhưng cuối cùng lại trở thành đúng như ý nghĩa của nó, một sự lặp lại của "Cây sồi nằm trong quả trứng cá". Đó là con đường dẫn tới sự trọn vẹn.

Tôi đã quá quen với việc nhìn thấy mái tóc của mình màu nâu đến mức thật khó để không muốn quay lại với mái tóc đó. Nhưng đến một lúc nào đó, việc lùi lại còn khó khăn hơn việc tiến lên.

Có nhiều sự chấp nhận hơn, không chỉ về mái tóc bạc mà còn về quá trình bạc đi của chính nó, và rằng cuộc hành trình cũng có giá trị như đích đến. Những cuộc hành trình lộn xộn và chúng rất độc đáo và do đó cũng rất đẹp. Tài khoản Instagram grombre được dành riêng cho “sự tôn vinh triệt để hiện tượng tự nhiên của tóc bạc” và giới thiệu những phụ nữ ở các giai đoạn phát triển màu xám khác nhau.

Đã khoảng một năm kể từ khi tôi ngừng nhuộm  màu lên tóc mình. Nhiều người trích dẫn số tiền tiết kiệm được từ việc trở nên xám xịt, hoặc thời gian rảnh rỗi khi ngồi vào ghế nhà tạo mẫu. Đó là những lý do chính đáng và có thể là lý do của bạn. Nhưng tôi dần nhận ra rằng cội nguồn của tôi thể hiện tương lai; tàn dư của màu sắc cho thấy quá khứ. Điều này gắn liền với cách chúng ta, với tư cách là một nền văn hóa, nhìn nhận tuổi trẻ và sự già đi. Chúng ta chỉ coi lớp trẻ là tương lai và người lớn tuổi chỉ là quá khứ hay còn gọi là “khôn ngoan” (và có lẽ đã lỗi thời). Đừng tin vào nó. Sự thật là thế này: Tất cả chúng ta đều là tương lai. Tất cả chúng ta đều có liên quan mật thiết với nhau


Tác giả Meredith Gordon Resnick L.C.S.W.

Chuyên đề Hành trình nội tâm

Nhiều người đã gởi tin nhắn cho tác giả về bài viết này với sự thích thú khi họ đọc và đã thay đổi rất nhiều quan điểm cá nhân của họ về "để tóc bạc tự nhiên" khi nó tìm đến. Người bạn đến thăm tối cuối tuần vừa rồi chắc cô ấy cũng đã đọc bài viết này. Cô ấy cắt tóc thật ngắn và để tóc mình màu tóc bạc tự nhiên.

Thứ Bảy, 24 tháng 2, 2024

Buông xả

 


Chữ "Buông" trong giáo lý đạo Phật được thuyết giảng rất nhiều từ những bậc thấy rất đáng kính phục. Tuy nhiên để hiểu rỏ về chữ buông thì phải cần chúng ta luyện tập đôi khi cả đời mới thấu hiểu hết chữ buông đã mang một ý nghĩa tuyệt vời như thế nào.

Nhiều người trong chúng ta lầm tưởng đức Phật là một đấng quyền năng có thể giúp cho chúng ta thoát khỏi vòng sinh, lão , bệnh, tử của cuộc đời. Tuy nhiên đức phật cũng chỉ là một con người bình thường như chúng ta và ngài cũng phải trải qua cuộc đời với những buồn vui bệnh hoạn như chúng ta.

SINH, LÃO, BỆNH, TỬ là định luật không thể thay đổi trong cuộc đời. Khi chúng ta đi tới vòng bệnh tức là giai đoạn hư hoại . Thân thể của ta sẽ chịu đau khổ vì các căn bệnh tìm đến, tất cả chỉ là luật vô thường chi phối. Đức Phật dạy chúng ta phải chấp nhận và sống an lạc với nó cho dù ở bất cứ giai đoạn nào cảu căn bệnh. Đừng than van hay oán trách cũng không cầu nguyện với phật bồ tát phù hộ vì cho dù ngài có phải là đấng tỉnh giác toàn năng cũng không thể độ hết chúng sinh.

Thí dụ chúng ta đang có một cuộc sống rất đầy đủ , danh vọng, tiền tài nhà cửa vợ chồng con cái nhưng những cái này cũng sẽ không thuộc về ta vì vô thường sẽ đem chúng đi.Bất cứ mọi vật cũng không thể giữ mãi tình trạng nguyên thủy như lúc ban đầu được. Mọi người, mọi vật đều phải thay đổi khác đi theo một định luật: Sinh, Trụ, Hoại. Diệt mà không cách nào sửa đổi được. Hiểu được điều này tự nhiên chúng ta sẽ không còn nắm giữ nữa vì nó đã không thật thì sẽ không thuộc về mình mãi mãi. Sự buông bỏ ở đây chính là không còn vướng mắc nữa

Buông xuống không có nghĩa trốn tránh, tiêu cực trong cuộc sống như có một số người trong chúng ta đã hiểu Phật giáo như vậy, hiểu trong tinh thần tiêu cực, thụ động. Ngược lại, Phật giáo buông xuống nhưng có nghĩa là tích cực, năng nổ làm việc để đem lại cho mình cho người có một cuộc sống ấm no đầy đủ, nhưng không vì vật chất mà chà đạp, xâu xé lên nhau để chiếm đoạt về phần mình nhiều hơn. Do đó, buông xuống có nghĩa là không dính mắc, chứ không có nghĩa tiêu cực không làm việc.


Buông xả có nghĩa là sống một đời sống ly dục ly các ác pháp khiến cho tâm mình thanh thản, an lạc và vô sự. khi nói đến buông xả là nói đến một đời sống đạo đức nhân bản – nhân quả, không làm khổ mình khổ người, một đời sống đức hạnh tuyệt vời mà mọi người hằng mơ ước.


Thứ Sáu, 23 tháng 2, 2024

Tâm lý thay thế tôn giáo bằng tâm linh


Mặc dù tôn giáo ít phổ biến hơn nhưng những nhu cầu cơ bản của con người chúng ta vẫn không thay đổi.

Những điểm chính cần lưu ý trong bài viết này :


-Nhiều người đã chuyển từ tôn giáo sang tâm linh để đáp ứng nhu cầu cộng đồng và ý nghĩa của họ.

-Những “sự thay thế” tinh thần cho tôn giáo cũng có thể nảy sinh những thắc mắc -khi con người sống chung với chúng.

-Niềm tin về Chúa cũng đang thay đổi, với những tác động không chắc chắn.

-Trong những năm gần đây, nhiều người trong chúng ta đã thay đổi cách tiếp cận tôn giáo và tâm linh. Đặc biệt ở những nơi có nhiều nguồn lực hơn, chẳng hạn như một số khu vực ở Hoa Kỳ và Châu Âu, tôn giáo nhìn chung trở nên ít phổ biến hơn.


Như một nhóm các nhà tâm lý học về tôn giáo do Julie Exline dẫn đầu gần đây đã lưu ý, việc rời xa tôn giáo xảy ra dưới ít nhất ba hình thức. Đầu tiên, một cá nhân có thể “hoàn toàn” hoàn toàn thành tâm với tôn giáo. Nghĩa là, họ có thể không còn coi mình là tôn giáo nữa và có thể không còn liên kết với một cộng đồng tôn giáo nào nữa.


Thứ hai, một người có thể tiếp tục xác định là có tôn giáo nhưng có thể rút lại sự tham gia của họ. Ví dụ, một người nào đó có thể giảm việc tham dự các buổi lễ tôn giáo hoặc dành ít thời gian hơn để đọc các văn bản tôn giáo. Thứ ba, một cá nhân có thể thoát khỏi bản sắc tôn giáo và sự tham gia tôn giáo của mình và thay vào đó tập trung vào tâm linh.


Những cách phong mới để đáp ứng nhu cầu cổ xưa.


Trong cuốn sách Sức mạnh của nghi lễ, Casper Ter Kuile khám phá và đưa ra lời khuyên về khả năng thứ ba này. Ông lập luận rằng, mặc dù nhiều người ở các nước phát triển đã trở nên ít tôn giáo hơn trong những năm gần đây, nhưng những nhu cầu cơ bản của con người mà tôn giáo giải quyết vẫn tiếp tục đóng vai trò quan trọng cho sự phát triển của con người. Ter Kuile viết:


“Có thể hữu ích khi nghĩ về niềm khao khát của con người dẫn đến văn hóa tôn giáo cũng giống như âm nhạc và ngành công nghiệp âm nhạc, vốn đã phải vật lộn rất nhiều trong hai mươi năm qua, với doanh số bán đĩa CD giảm nhiều trong phần lớn những năm 2000 và 2010. Nhưng tình yêu âm nhạc của chúng ta vẫn còn đó. Điều tương tự cũng đang xảy ra trong đời sống tâm linh của chúng ta. Số người tham dự các hội thánh giảm đi, nhưng lòng khao khát cộng đồng và ý nghĩa của chúng ta vẫn còn.”

Về vấn đề này, Ter Kuile chú ý đến một điều mà nhiều người trong chúng ta có thể không nhận thấy: sự hình thành và gia tăng sự tham gia vào những gì có thể được gọi là “sự thay thế” tinh thần cho tôn giáo. Ông tiếp tục:


“Việc liên kết chính thức đang giảm dần, nhưng hàng triệu người đang tải xuống các ứng dụng thiền và tham gia các khóa tu cuối tuần. Hơn nữa, họ tìm thấy những bài học tinh thần và niềm vui ở những nơi hoàn toàn 'phi tôn giáo' như các lớp học yoga, thơ Cleo Wade và Rupi Kaur, cũng như các nhóm đệm nhạc như Alcoholic Anonymous và Bữa tiệc tối. Các buổi hòa nhạc ở sân vận động và dàn karaoke thay thế cho việc ca hát tập thể, podcast và bài tarot thay thế các bài giảng hoặc lời dạy khôn ngoan.”


Ter Kuile sau đó lưu ý một số khả năng trong kỷ nguyên mới này. Các cá nhân có thể “tách rời các truyền thống” và “kết hợp chúng” với các nghi lễ thiêng liêng nhằm xây dựng cộng đồng và tạo ra ý nghĩa. Để phù hợp với điều này, cùng với Vanessa Zoltan, Ter Kuile đã tạo ra podcast nổi tiếng “Harry Potter và Văn bản thiêng liêng” như một cách để các cá nhân tụ tập ảo và chia sẻ việc đọc kỹ một bộ sách yêu thích theo nghi thức.



Một ví dụ khác, gần đây tôi đã đi bộ đường dài ở công viên tiểu bang địa phương ở Afton, Minnesota. Theo chân Ter Kuile, khi rời xe, tôi tắt nguồn điện thoại để cố tình kết nối hơn với vẻ đẹp thiên nhiên mà tôi bắt gặp.


Sau đó, tôi quyết định tìm một cái cây trong công viên để kết nối, một cái cây mà tôi quyết định là đã già và xương xẩu, một cái cây nổi bật so với những cái còn lại. Tôi đã tìm thấy một cái phù hợp với những tiêu chí này nhìn ra Sông St. Croix, và tôi đã đi vòng quanh nó ba lần trong tâm trí như một cử chỉ thiêng liêng để vừa đánh giá cao cái cây vừa nghi thức hóa tầm quan trọng của nó. Lần tới khi tôi đi bộ ở công viên này, cái cây đó chắc chắn sẽ mang lại nhiều ý nghĩa hơn cho tôi.


Những Câu Hỏi Về Sự “Thay Thế” Tâm Linh


Có rất nhiều bằng chứng nghiên cứu cho thấy rằng cộng đồng ngày càng tăng và ý nghĩa góp phần mang lại kết quả cuộc sống tích cực như nâng cao hạnh phúc. Tuy nhiên, tôi tự hỏi liệu những “sự thay thế” tinh thần này có thể bắt đầu tạo ra những nghi ngờ và thắc mắc của chính chúng cho mọi người hay không. Chẳng hạn, điều gì thực sự tạo nên một văn bản “thánh thiêng”? Harry Potter có đủ không? Thơ của Mary Oliver hay văn bản nào khác sẽ hay hơn?



Nói rộng hơn, tâm linh được xác định bằng cách chúng ta tiếp cận các hoạt động nhất định hay nó phải gắn liền với một loại chất liệu nhất định? Mặc dù đó là một trải nghiệm thú vị và mặc dù không có lý do gì để không làm điều này, liệu tôi có thể làm tốt hơn việc đi dạo quanh một cái cây xinh đẹp ba lần không? Một phần của việc xem tôn giáo và tâm linh như một cuộc tìm kiếm là đặt những câu hỏi kiểu này, thành thật tìm kiếm điều gì là đúng và tốt ở bất cứ nơi nào mà quá trình có thể dẫn đến.


Còn Chúa thì sao?


Có lẽ câu hỏi chưa được trả lời lớn nhất liên quan đến Chúa. Dữ liệu khảo sát quốc gia cho thấy những người xác định là “tâm linh nhưng không tôn giáo” ít có khả năng tin vào Chúa hơn những người xác định là “tâm linh và tôn giáo” so với những người xác định là “cả tâm linh và tôn giáo” (20% so với 84%) nhưng lại cao hơn đáng kể. có khả năng tin vào “một số sức mạnh hoặc sức mạnh tâm linh cao hơn khác trong vũ trụ” (73% so với 15%). Các dữ liệu khác cho thấy, trong số những người không theo tôn giáo nào, niềm tin vào Chúa đã giảm sút theo thời gian như thế nào.


Nếu chúng ta nhận thấy cộng đồng và ý nghĩa theo những cách tách biệt khỏi các cấu trúc và thể chế tôn giáo truyền thống, liệu chúng ta có đánh mất Chúa trong quá trình đó không?

Nghiên cứu đáng chú ý chứng minh rằng việc nhận thức được mối quan hệ cá nhân với Chúa dự đoán nhiều lợi ích tâm lý khác nhau, đặc biệt khi mối quan hệ được hiểu là an toàn và khi Chúa được cho là ấm áp, quan tâm và yêu thương. Như các nhà nghiên cứu lưu ý, các cá nhân có thể “coi Chúa là nguồn hỗ trợ đặc biệt mạnh mẽ” và điều này dường như đặc biệt đúng trong những thời điểm khó khăn khi khả năng kiểm soát nhận thức ở mức thấp. Điều đáng quan tâm là nghiên cứu cho thấy những cá nhân có tuổi thơ khó khăn có nhiều khả năng cải đạo sau này trong cuộc sống, có thể vì sự an toàn mà mối quan hệ nhận thức được với Chúa mang lại khi những người khác có quá khứ không cảm thấy an toàn.

Khi chúng ta khám phá một bối cảnh tôn giáo và tâm linh mới, sự rõ ràng có thể đến. Lối sống tâm linh mới có cải thiện cuộc sống của chúng ta so với lối sống tôn giáo trước đây không? Chúng ta có nhớ Chúa, khao khát Chúa hay không quan tâm đến Chúa? Điều gì về tôn giáo và tâm linh giúp chúng ta phát triển nhất? Cách chúng ta giải quyết những câu hỏi như vậy có thể đóng góp vào chương tiếp theo về sự phát triển của tôn giáo và tâm linh trong thế kỷ 21.


Tác giả :Andy Tix, Tiến sĩ, là giảng viên Khoa Tâm lý học tại Cao đẳng Cộng đồng Normandale. Ông ta cũng từng giảng dạy về sự giao thoa giữa Tâm lý học và Tâm linh Kitô giáo, trên các nền tảng  LinkedIn, Twitter


Bài viết này mục đích chỉ cho chúng ta ta thấy rỏ sự liên kết giữa tâm linh và tôn giáo. Đôi khi chúng ta coi thường tôn giáo mà chỉ hướng đến tâm linh hay có môt số người chỉ tin vào tâm lý mà không có một khái niềm gì về tôn giáo hay tâm linh. 

Thứ Năm, 22 tháng 2, 2024

Trong sự sống đã có sự chết



“Đường xưa còn đó, những đám mây trắng vẫn còn, nếu mình bước một bước trên con đường này, bước với tâm trạng an hòa và tỉnh thức, thì con đường xưa và những đám mây trắng cũ sẽ mầu nhiệm biến thành con đường hôm nay và những đám mây trắng trong hiện tại…”, Thiền sư Thích Nhất Hạnh. 

Theo di huấn của thầy Thích Nhất Hạnh thì các đệ tử của ngài không được xây bảo tháp. Tro của thầy sẽ được rải khắp nơi để hòa cùng bước chân của các đệ tử ngài. Thầy thường nói " Thầy không phải là cái nắm tro đó. Không có lý Thầy chỉ là cái nắm tro ấy hay sao? 

Thầy đã viên tịch nhưng Thầy là một thực tại linh động, đang sống, đang có mặt khắp nơi. Trong các sư chú và các sư cô đều có Thầy, trong các vị cư sĩ quen biết đều có Thầy. Ở chỗ nào mà có thiền hành, thiền tọa, có pháp đàm, có ăn cơm yên lặng, có Sám Pháp Địa Xúc là có Thầy! 

Không được nhốt Thầy, bỏ Thầy vào trong một cái hũ nhỏ rồi đặt Thầy vào trong một cái tháp. Thầy không muốn Thầy có một cái tháp. Tốn đất chùa vô ích. Sư Thầy Đàm Nguyện đã xây cho Thầy một cái tháp ở chùa Đình Quán. Đã lỡ xây rồi thì phải ghi lên trước tháp mấy chữ: “Trong này không có gì”. Thầy không nằm trong tháp ấy đâu. Nếu người ta vẫn chưa hiểu thì ghi thêm một câu nữa “Ngoài kia cũng không có gì”. Và nếu vẫn còn chưa hiểu thì ghi thêm một câu chót là “Nếu có gì thì nó có trong bước chân và hơi thở của bạn”. 

Đừng phí thì giờ nghĩ đến chuyện tìm đất xây tháp cho Thầy. Đó không phải là điều Thầy nghĩ tới. Nếu có một tảng đá có sẵn thì để vào trong hốc đá bản thảo của một cuốn sách của Thầy như cuốn Phép lạ của sự tỉnh thức thì tảng đá đó có Thầy nhiều hơn là một cái tháp trong đó có một nắm tro. Đem tro mà rải hết ra ngoài để nuôi cây nuôi cỏ, cho cỏ cho cây lớn lên. Đừng có ngăn ngừa sự tiếp nối của nắm tro ấy...". 

Trong một buổi pháp thoại ở xóm thượng(làng mai) Thiền sư đã trả lời về sự sống và cái chết. Thiền sư nói: “Sự sống luôn có mặt đồng thời với cái chết, không có trước mà cũng không có sau. Sự sống không thể tách rời khỏi cái chết. Nơi nào có sự sống thì nơi đó có cái chết và nơi nào có cái chết thì nơi đó có sự sống.

Điều này cần phải quán chiếu kỹ mới có thể hiểu được. Trong đạo Bụt, chúng ta nói về tính tương tức của vạn vật, nghĩa là không ai trong chúng ta có thể tồn tại một cách biệt lập, riêng rẽ. Chúng ta phải tương tức với những thành phần khác. Nó cũng giống như bên trái và bên phải. Nếu bên phải không có đó thì bên trái cũng không thể có mặt. Nếu không có bên trái thì cũng không có bên phải. Không thể nào có thể lấy bên trái ra khỏi bên phải hoặc lấy bên phải ra khỏi bên trái.

Cũng vì vậy mà khi Thượng Đế truyền lệnh: "Ánh sáng, hãy xuất hiện đi !" thì ánh sáng thưa rằng: "Con phải đợi, thưa Thượng Đế! Con phải đợi!". Thượng Đế nghe vậy liền hỏi: "Ngươi còn đợi cái gì nữa?". Ánh sáng đáp: "Dạ, con đang đợi bóng tối đến để biểu hiện cùng một lúc". Bởi vì ánh sáng và bóng tối tương tức với nhau. Khi đó, Thượng Đế mới bảo rằng: "Bóng tối đã xuất hiện rồi". Ánh sáng đáp: "Vậy thì con cũng đã có mặt ở đó rồi!". 

Điều này cũng đúng với các cặp đối lập như: tốt - xấu, trước - sau, ở đây - ở đó, anh - tôi. Tôi không thể nào có mặt ở đó nếu không có anh. Cũng giống như hoa sen kia không thể nào có mặt nếu không có bùn. Không có bùn thì cũng không có sen. Cũng tương tự như vậy, hạnh phúc sẽ không thể nào có được nếu không có khổ đau, cũng như không thể nào có sự sống nếu không có cái chết…”. 


Trong khóa tu cho người Việt ở Washington, có người hỏi: “Chúng con tu theo Tịnh độ. Khi niệm Bụt A Di Đà chúng con biết khi chết chúng con sẽ về đâu?”. Sư ông Làng Mai trả lời: 

“Không phải chỉ khi nào xác thân ta tan hoại và những tác dụng tâm lý của ta không còn biểu hiện nữa thì ta mới về với đất Mẹ. Sự thật là ta đang về với đất Mẹ trong từng giây từng phút. Mỗi khi thở, mỗi khi bước đi là chúng ta đang trở về. Khi chúng ta gãi, những tế bào khô rớt xuống đất là ta đã trở về đất Mẹ. Luôn luôn có những cái cho vào và cho ra đang xảy ra, vì vậy chúng ta đừng nghĩ rằng chỉ sau khi xác thân tan hoại rồi ta mới trở về. Chúng ta đang trở về và trở ra trong từng giây phút của đời sống hằng ngày. 

Con người tự hào mình là những chiến sĩ dũng cảm, nhưng trái đất mới là một chiến sĩ dũng cảm đã trải qua 4 tỷ năm kiên nhẫn, hào hùng chờ đợi cho tới khi sự sống phát hiện. Nói về tình thương, chúng ta thấy đất Mẹ đã cho ra đời không biết bao nhiêu chủng loại và đã tìm cách để nuôi dưỡng các chủng loại đó.

Đất Mẹ cho ta ra đời, cho ta không khí để thở, cho ta nước để uống, thực phẩm để ăn, cho ta cây cỏ để trị liệu, tình thương đó là một tình thương rất lớn. Ta có thể nhận diện hành tinh của ta là một bà mẹ. Đất Mẹ luôn luôn có đó và đón ta trở về với hai bàn tay từ mẫu, để rồi sẽ đưa chúng ta ra đời trở lại. Chúng ta có một bà mẹ tuyệt vời và xinh đẹp như vậy mà không biết trân quý, chúng ta đi tìm một bà mẹ khác trong đầu óc tưởng tượng của chúng ta. 

Đất Mẹ đã đưa chúng ta ra đời một lần, khi chúng ta trở về, đất Mẹ sẽ đưa hai tay ra ôm lấy và sẽ đưa chúng ta ra đời muôn vạn lần khác. Không có gì mà ta phải lo sợ”. 

GS.TS John Powers, một học giả Phật học của Australia, trong tác phẩm Thế giới Phật giáo, đã chọn 13 vị sư góp phần vào sự thành hình và phát triển đạo Phật thế giới trong 2.500 năm qua, và Thiền sư Nhất Hạnh ở vị trí thứ 10.

Theo tưởng nhớ Thiền sư Nhất Hạnh

Thứ Tư, 21 tháng 2, 2024

VUỢT LÊN TRÊN CĂN BỆNH HAY SUY TƯ CỦA BẠN



Căn bệnh trầm kha nhất của con người là: hay bị cuốn hút vào trong những suy tư , lo sợ vản vơ ở trong mình.
Đa số chúng ta hoang phí cuộc đời mình trong ngục từ của những suy tưởng không-có-chủ-đích, hay những lo sợ triền miên. Chúng ta chưa từng bao giờ vượt lên trên một cảm nhận hạn hẹp về tự thân - được tạo nên bởi thói quen suy tư ở trong ta và thường bị trói buộc bởi quá khứ.
Ở trong bạn, cũng như trong mỗi con người, có một chiều không gian, chiều tâm thức sâu lắng hơn là những suy tưởng không-có-chủ-đích (trên bề mặt của tâm thức bạn). Đó cũng là tinh chất của chính bạn. Chúng ta có thể gọi tên chiều tâm thức dó: Hiện Hữu, sự có mặt, sự nhận biết, hay thứ Tâm thức khoáng đạt, trong sáng, chưa-bị-trói-buộc . Trong những truyền thống tâm linh cổ điên, cái đó được gọi là Bản chất Thượng Đế hay Phật Tánh  ở trong mỗi người.

Tìm ra được chiều không gian đó sẽ giải thoát bạn, và đời sống của bạn, khỏi những khổ đau mà bạn đã gây ra cho chính mình và những người chung quanh khi “cái Tôi nhỏ bé” - được làm ra bởi trí năng– là tất cả những gì bạn biết về chính mình, điều khiển cuộc đời của bạn. Lòng xót thương, niềm vui, khả năng sáng tạo bất tuyệt, và sự an lạc vững bền ở nội tâm không thể đi vào đời sống của bạn, ngoại trừ qua chiều tâm thức khoáng đạt, trong sáng, chưa-bị-trói-buộc đó.
Nếu bạn chỉ cần nhận thức, không cần phải thường xuyên, rằng những suy-tư-không-có-chủ-đích, những lo sợ vẩn vơ thường phát sinh ở trong bạn chỉ đơn thuần là những suy tư, những cảm xúc, không hơn không kém; nếu bạn có khả năng chứng kiến, và quan sát mà không phê phán những khuôn mẫu phản ứng rất bó buộc trong suy tư hay tình cảm ở trong bạn , khi những phản ứng đó đang xảy ra, thì chiều không gian trong sáng đó đang trở nên rõ nét, và lớn dần lên ở trong bạn. Đó như là một sự nhận biết về cái không gian mà trong đó những ý nghĩ và cảm xúc của bạn được diễn ra. Đó là mộtchiều không gian vô tận ở trong bạn, trong đó những tình huống của cuộc đời bạn  được phơi bày.
Dòng suy tưởng không-có-chủ-đích, những lo sợ tiêu cực, vẩn vơ…của bạn có một quán tính rất mãnh liệt, chúng dễ dàng cuốn phăng bạn đi. Mỗi ý nghĩ, mỗi cảm xúc xảy đến trong bạn thường giả vờ với bạn rằng cảm xúc, hay ý tưởng đó là một điều gì cực kỳ quan trọng đối với bạn. Ý nghĩ hay cảm xúc đó luôn luôn muốn lôi kéo tất cả sự chú tâm của bạn.

Tôi có một thực tập tâm linh mới cho bạn: “Đừng quan trọng hoá những suy tưởng không-chủ-đích, những cảm xúc tiêu cực, lo sợ miên man đó!”

Người ta thường dễ dàng bị trói buộc vào những ngục tù của khái niệm của chính mình! .

Đầu óc của con người, vì luôn luôn muốn biết, muốn hiểu, muốn kiểm soát,…nên thường lầm tưởng rằng ý kiến và quan điểm của mình chính là chân lý. Đầu óc ta luôn luôn nói rằng: “Đây là một chuyện hiển nhiên”. Bạn phải vượt lên trên những loại suy tư, cảm xúc ấy để nhận ra rằng, dù bạn có diễn kịch “đời mình” hay cuộc đời của một ai khác, hoặc phê phán về bất kỳ một tình huống nào,…thì đó cũng chỉ là một quan điểm, không hơn không kém, là một trong muôn ngàn quan điểm khác nhau. Đó chỉ là một mớ của những suy tư ở trong bạn. Ngược lại, thực tại là một toàn thể thống nhất, trong đó tất cả mọi thứ được đan quyện vào nhau, không có một cái gì có thể tồn tại độc lập, riêng lẻ. Suy tư của bạn
cắt xén thực tại - cắt thực tại thành những mảnh vụn rời rạc của khái niệm.
Đầu óc hay khả năng suy tư của bạn là một công cụ khá hữu ích và có nhiêu năng lực, nhưng sự suy tư đó sẽ trở nên rất giới hạn khi nó bắt đầu chiếm hữu toàn bộ con người của bạn, nhất là khi bạn
không nhận ra rằng suy tư chỉ là một phần rất nhỏ của Tâm - bản chất chân thực của bạn .
Sự thông thái không phải là sản phẩm của suy tư. Nhưng đó chính là cái Biết sâu sắc phát sinh từ một hành động đơn thuần là đặt sự chú tâm của mình một cách hoàn toàn vào một người hay một vật. Sự chú tâm chính là sự sáng suốt nguyên sơ, là tự thân của ý thức – là khả năng nhận biết ở trong mình.
Sự chú tâm này làm tan vỡ những biên giới được tạo ra bởi những suy tư, và khái niệm của bạn, từ đó bạn nhận thức rằng không một thứ gì có thể tự mình mà tồn tại được. Sự chú tâm giúp cho chủ thể và đối tượng hòa với nhau trong một trường ý thức thống nhất. Đó là thứ có thể chứa lành sự chia cách ở trong bạn.
Khi nào bạn bị chìm đắm trong những suy tưởng bó buộc, không cưỡng lại được, đó là lúc bạn đang muốn trốn chạy những gì đang hiện diện . Là lúc bạn đang không muốn có mặt ở nơi này. Bây giờ và ở đây.

Chủ nghĩa giáo điều – trong tôn giáo, khoa học,…- được phát sinh bởi niềm tin sai lạc rằng tư tưởng có thể gói trọn được thực tại hay chân lý. Nhưng thực ra, chủ nghĩa giáo điều chỉ là những ngục tù của khái niệm. Và điều kỳ lạ là người ta rất thích những nhà tù đó vì nó cho họ một cảm giác an toàn và một cảm nhận giả tạo về cái gọi là “Tôi biết”.
Không có gì gây khổ đau cho nhân loại hơn là chủ nghĩa giáo điều. Sự thực là không sớm thì muộn, mỗi giáo điều đều đi đến chỗ sụp đổ, vì thực tế phơi bày những sai lầm của giáo điều đó; tuy nhiên ,trừ khi cái sai lầm căn bản của một giáo điêu được nhìn nhận, nếu không thì một giáo điều chỉ được thay bằng một giáo điều khác.
Vậy thì cái sai lầm căn bản này là gì? Đó là tự đồng hoá mình với những suy-tư-không-chủ-đích ở trong mình.
Sự tỉnh thức về tâm linh là sự tỉnh thức khỏi giấc mơ suy tư ở trong mình.
Tầm là chiều không gian rộng lớn hơn những gì ý tưởng ta có thể nắm bắt được. Lúc bạn không còn cả tin vào những gì mình suy nghĩ,đó là lúc bạn bước ra khỏi suy tưởng và thấy rõ rằng: Bạn không phải là phần trí năng hay những suy tư không chủ đích, hoặc những lo sợ liên miên ở trong bạn.
Trí năng của bạn luôn hiện hữu trong một trạng thái “chưa toàn vẹn” và do đó luôn luôn có sự tham  cầu, mong muốn để có thêm một cái gì đó. Cho nên khi bạn tự đồng hoá với trí năng và những suy tư không chủ đích ở trong đầu, bạn sẽ dễ dàng cảm thấy nhàm chán, và bất an. Khi nào tự nhiên bạn cảm thấy nhàm chán có nghĩa là lúc đó trí năng của bạn đang có một nhu cầu được kích thích, hoặc cần
thêm nhiều thức ăn cho thói quen suy tư, và nhu cầu đó đang không được thoả mãn.
Khi bạn cảm thấy nhàm chán, bạn thường thích cầm một cuốn tạp chí lên, gọi một cú điện thoái cho ai đó, bật máy truyền hình hoặc lên mạng, đi mua sắm, hay thông thường chuyển qua nhu yếu thiếu thốn và luôn muốn có thêm một cái gì đó của trí năng thành một nhu yếu của cơ thể và thoả mãn cấp thời cho nó bằng cách tiêu thụ thêm thức ăn vào bụng. Hoặc bạn cứ để cho mình ở trong trạng thái nhàm chán không yên đó và thử quan sát, cảm nhận xem cảm giác nhàm chán và bất an ấy thực ra như thế nào. Khi bạn mang sự chú tâm của mình vào những cảm xúc ở trong mình, bỗng nhiên có một chút không gian và tĩnh lặng quanh nó. Ban đầu thì rất ít,nhưng khi không gian bên trong của bạn lớn dần lên, cảm giác nhàm chán sẽ bắt đầu giảm cường độ và tính quan trọng của nó. Do đó ngay cả sự nhàm chán cũng có thể dạy cho bạn bản chất chân thực của mình, và những gì không phải là mình. 

Bạn khám phá ra rằng một kẻ chán đời không phải là bạn. Sự nhàm chán chỉ là một sự chuyển động của dòng năng lượng đã bị điều kiện hoá ở trong bạn. Bạn không phải là một người giận dữ, buồn bã hay sợ hãi. Sự nhàm chán, giận dữ, buồn bã hay sợ hãi đang có mặt ở trong bạn, nhưng bạn không phải là người duy nhất có vấn đề này. Đó là điều kiện chung của thứ tâm thức của con người đang bị trí
năng điều khiển. Điều cần nhớ là những cảm xúc đó đến rồi đi như mây trên trời.
Nhưng bạn thì không phải là một cái gì đến rồi đi.

“Tôi cảm thấy nhàm chán quá!”. Cái gì ở trong bạn đang nhận ra cảm xúc này?
Bạn chính là nhận thức, là Cái Biết đó, mà không phải là thứ tâm thức đã bị ô nhiễm - tức cảm giác nhàm chán - vừa được bạn nhận biết.

Sự kỳ thị, dù bất kỳ đó là thứ kỳ thị gì, ám chỉ rằng bạn đã đồng hoá mình với đầu óc suy tư. Điều đó có nghĩa là bạn không nhận ra bên kia là một con người nữa, nhưng chỉ còn là khái niệm của bạn về con người đó. Giảm thiểu sự sinh động của một con người xuống thành một khái niệm thì quả thật đó là một hành xử rất thô bạo.

Suy nghĩ, khi không được cắm rễ trong ý thức, sẽ trở thành một cái gì đó chỉ phục vụ cho quyền lợi của cá nhân và có tính băng hoại. Sự tài tình mà thiếu khôn ngoan ở trong ta là điều rất nguy hiểm và tai hại. Nhưng đó là tình trạng hiện thời của đa số người. Thói quen suy tư của chúng ta, khi được khuyếch đại qua khoa học và kỹ thuật, mặc dù tự thân điều đó không tốt mà cũng không xấu, cũng bắt đầu có tính huỷ diệt vì loại suy tư phát sinh từ trong đó không có gốc rễ từ ý thức.
Bước nhảy vọt trong tiến trình phát triển của tâm thức nhân loại là vượt lên trên những suy tư không có-chủ-đích , những lo sợ vẩn vơ ở trong mình. Đây là điều cần thiết nhất trong thời điểm này. Như thế không có nghĩa là chúng ta không cần đến khả năng suy nghĩ nữa, nhưng chỉ là thôi không còn hoàn toàn đồng hoá mình với những suy tư không-có-chủ-đích, hoặc những lo sợ miên man; tức là khi bạn không còn bị ám ảnh, và chiếm hữu bởi loại suy tư vô bổ này nữa
Hãy cảm nhận năng lượng của cơ thể bên trong bạn. Ngay lập tức, những hoạt náo, bận rộn của trí óc bạn sẽ được giảm thiểu và chấm dứt. Hãy cảm nhận năng lượng đó trong tay, chân, bụng và ngực của bạn. Hãy cảm nhận rằng bạn chính là sự sống, sức sống đang làm chuyển động hình hài này.

Từ đó cơ thể bạn sẽ trở thành một cánh cửa, ta có thể nói như vậy, giúp bạn đi vào cảm nhận sự sống động, sâu lắng hơn bên dưới những thay đổi thất thường của cảm xúc và bên dưới những suy tư. Có một sự sống động ở trong bạn mà bạn có thể cảm nhận được với toàn thể con người mình, không chỉ bằng trí năng. Mỗi tế bào đều đang sống trong hiện hữu, trong trạng thái bạn không cần phải suy tư. Nhưng đồng thời, nếu cân suy nghĩ, thì bạn sẽ suy nghĩ. Trí năng vẫn có khả năng hoạt động, và hoạt động rất hiệu quả khi sự thông mình rộng hớn hơn ở trong bạn – cũng chính là bản chất chân thực của bạn - sử dụng trí năng của bạn và bày tỏ sự thông thái qua trí năng đó.
Bạn có thể không nhìn ra phút giây ngắn ngủi trong đó bạn rất có ý thức với những gì đang xảy ra, nhưng không hề suy tư. Điều này có lẽ đã xảy ra một cách tự nhiên và đồng bộ trong đời sống của bạn.
Nhưng lúc đó, bạn có thể đang tham dự vào một hoạt động bằng chân tay, hoặc đang đi băng ngang một căn phòng, hay đứng đợi ở một quầy vé máy bay, và bạn hoàn toàn có mặt đến độ những nhiễu sóng ồn ào của những suy tư ở trong bạn bỗng dưng im bặt, thay vào đó là sự có mặt đầy ý thức. Hoặc bạn bắt gặp mình đang ngẩng đầu nhìn lên một bầu trời đêm đầy tinh tú, hoặc đang lắng nghe một ai đó mà trong đầu bạn, không hề có tiếng nói vang vang – luôn bình phẩm về người này, người khác. Nhận thức của bạn lúc đó trở nên rất trong sáng không còn bị che mờ bởi suy nghĩ, ưu tư.
Đối với trí năng, tất cả những điều này chẳng có ý nghĩa gì đáng kể, vì trí năng của bạn luôn “có những điều khác quan trọng hơn” để nghĩ đến. Đây không phải là một cái gì gợi lên sự chú tâm ở trong bạn, và đó là lý do làm cho bạn không nhận ra rằng bạn có khả năng có mặt với những gì đang thực sự
xảy ra mà không vướng chút suy tư, nghĩ ngợi gì.
Thực ra biến cố này là một điều đáng kể nhất có thể xảy đến với bạn. Vì đó là sự bắt đầu của việc chuyển đổi từ trạng thái suy nghĩ miên man, không có chủ đích sang trạng thái có mặt đầy ý thức với những gì đang xảy ra chung quanh bạn.
Bạn hãy thực tập vẫn giữ cho mình cảm thấy thoải mái trong trạng thái “không biết” về một điều gì.Điều này giúp bạn vượt lên trên những suy tưởng miên man, vì lý trí bạn luôn có nhu yếu muốn kết luận, suy diễn những gì bạn thực không biết. Lý trí của bạn rất sợ hãi khi phải đối diện với một điều gì nó không biết. Do đó, khi bạn có khả năng thư thái với trạng thái không biết, bạn đã vượt lên trên trí năng. Có một sự thông thái, hiểu biết sâu xa ở trong bạn, mà chắc chắn không phải là trạng thái suy nghĩ, ưu tư.
Sáng tạo nghệ thuật, thể thao, khiêu vũ, giáo dục, cố vấn tâm lý - nếu bạn muốn trở nên điều luyện trong một lĩnh vực nào kể trên, hay bất cứ lĩnh vực nào mà bạn yêu thích, thì bạn đừng để cho thói quen suy tư không-chủ-đích của mình dính líu nhiều vào lĩnh vực ấy, hoặc để cho loại suy tư đó chỉ còn là một khía cạnh phụ thuộc mà thôi. Có một năng lực và sự thông minh rộng lớn, vượt trội hơn con người của bạn, nhưng đồng thời cũng chính là bạn, làm chủ và đìêu hành quá trình sáng tạo ở trong bạn. Bạn sẽ không còn sử dụng thói quen suy tư một điêu gì trước khi lấy quyết định ; mà lúc chuyện gì bạn cần làm, sẽ được làm một cách tự nhiên, không bị gò bó, và “bạn” không phải  là người thực hiện những công việc ấy. Thông hiểu đời sống là điều ngược lại với sự kiểm soát. Bạn trở nên hoà điệu với một tâm thức cao hơn. Chính tâm thức đó hành động, hướng dẫn, và làm những công việc cần làm.
Một giây phút hiểm nguy có thể mang lại một sự tắt ngấm tạm thời dòng chảy của những suy tư vẩn vơ và giúp bạn nếm được hương vị của trạng thái có mặt, cảnh giác, và chú tâm.
Chân lý vượt lên trên tất cả những gì trí năng bạn có thể hình dung, lĩnh hội được. Không một tư tưởng nào có thể ghói ghém được sự thật của cuộc tồn sinh. Cùng lắm thì tư tưởng có thể làm “một ngón tay chỉ trăng” , chỉ cho ta nhìn về hướng của Chân lý. Ví dụ, giáo lý “Tất cả là một”  chỉ  là một bảng chỉ đường, mà không phải là Chân lý. Để hiểu được giáo lý này, bạn cần cảm nhận sâu sắc
từ bên trong bạn sự thật mà câu giáo lý này muốn chỉ ra.

Trích trong "Khi Im Lắng Cất Lời" Eckhart tolle

Thứ Ba, 20 tháng 2, 2024

PHÚC ĐỨC lÀ GÌ?

Theo định nghĩa của từ điển Việt Nam thì Phúc đức là một từ trong tiếng Việt có nhiều ý nghĩa. Theo danh từ thì phúc đức thường được hiểu là điều tốt lành để lại cho con cháu do ăn ở tốt, theo quan niệm truyền thống. Đây là sự may mắn và ơn lành được thừa hưởng từ tổ tiên. Tỉnh từ thì phúc đức cũng có thể ám chỉ việc làm những điều tốt lành cho người khác, thường với hi vọng để cái phúc lại cho con cháu.

Theo giáo lý đạo Phật thì bản thân mỗi người được tồn tại trên đời, được hạnh phúc hay gặt hái được nhiều thành công hơn người khác ... tất cả đều do Phúc Đức mà ra. Tuy nhiên phúc đức phải là do nhiều duyên kiếp luân hồi và chúng sanh hiện hữu trong cuộc đời như thế nào đều do phúc đức đã đựoc tạo ra từ muôn ngàn vạn kiếp trước. Phúc đức càng nhiều thì ngoài vật chất đầy đủ, tinh thần càng thoải mái và luôn đứng ở vị thế cao hơn những người khác mà hình dáng của chúng ta cũng nhờ phúc đức mà trở nên đẹp hay xấu.

Phúc đức là một lá chắn bảo vệ chúng ta, là một siêu năng lực mang đến may mắn. Khi có biến cố, lập tức phúc đức phát huy sức mạnh của mình, hóa giải tai ương, mang đến sự bình an cho chúng ta 

Như đã nói trên Phúc được tích lũy từ quá trình ăn ở của các bậc tiền bối có chung huyết thống với mọi người. Ông bà, cha mẹ, tổ tông sẽ là người tạo ra phúc truyền lại cho con cháu, do đó mới gọi là hưởng phúc.

Còn Đức lại được tích lũy từ chính quá trình sống hằng ngày của bản thân mỗi người và được cộng dồn lại để chuyển phúc cho đời tiếp theo.

Đức là do chính bản thân mỗi người tạo ra, vì thế người ta mới gọi là tích đức. Phần Phúc sẽ ảnh hưởng đến cuộc sống của một người trước 30 tuổi, và phần Đức sẽ ảnh hưởng đến cuộc sống từ 30 tuổi cho đến lúc chết và đời con cháu tiếp theo. Khi còn nhỏ chúng ta được hưởng phúc của ông bà cha mẹ nhưng chỉ đến 30 tuổi thì chính chúng ta phải tự mình tạo phúc đức cho mình và cho con cháu của đời sau. Cho nên nếu bạn thiếu may mắn không được hưởng phúc đức từ cha mẹ thì không nên nản lòng mà bản thân bạn sẽ có cơ hội tạo dựng phần đức cho riêng mình. 

Đôi khi có những người có hành vi không tốt nhưng họ cũng sống rất thoải mái bởi vì họ được hưởng phúc của ông bà cha mẹ để lại nhưng nếu phần đời sau họ không chịu hành thiện tạo phúc đức cho mình thì nghiệp sẽ phải mang nếu không ở đời này thì cũng sẽ đi theo họ đến kiếp sau không ai có thể tránh được. Đó là vì họ đã tiêu hết phần phúc của mính do ông bà cha mẹ để lại mà chỉ còn lại cái nghiệp trong đời này mà họ đã tạo ra.

Nếu bạn cảm thấy bản thân kém may mắn do không được hưởng phần phúc thì chúng ta vẫn còn lại phần đức để tự cứu lấy chính mình. Phúc không thể được sinh sôi hay tạo thêm vì nó đã được mặc định ngay từ khi bạn sinh ra, nhưng phần Đức thì không có giới hạn, bạn càng làm nhiều điều tốt sống càng lương thiện thì Đức càng được tích trữ nhiều.

Cuộc đời một nửa là do số mệnh an bài nhưng một nữa còn lại vẫn nằm trong tay chúng ta. Ông trời có đức hiếu sinh, không triệt đường sống của ai bao giờ, chỉ có chúng ta tự đẩy mình vào vực thẳm mà thôi.

Phúc đức bị tiêu trừ khi Nghiệp chướng xuất hiện và Nghiệp Chướng sẽ được hóa giải khi Phúc Đức được tích lũy. Mỗi người đều đang cầm trên tay một thanh gươm báu sử dụng vào việc tạo Phúc hay tạo Nghiệp là do chúng ta quyết định bởi mọi việc chúng ta làm không chỉ ảnh hưởng đến mỗi mình mình mà còn ảnh hưởng tới rất nhiều người khác. Số mình có tốt hay xấu ở nửa đời người còn lại là do chúng ta định đoạt.


Chúng ta không thể chọn cách bắt đầu, nhưng kết thúc đều do chính chúng ta định đoạt.



Thứ Hai, 19 tháng 2, 2024

Tình yêu vị kỷ

 Trong các câu chuyện về Phật giáo, tôi thích nhất là câu chuyện sau đây :

 Chuyện kể rằng có một thiếu nữ tên là Magadida, thuộc hàng danh môn vọng tộc. Cô xinh đẹp đến độ các công tôn, vương tử thoạt nhìn đều si mê, như có sự cuốn hút lạ lùng. Sắc đẹp đó đã làm cho cô đau khổ nhiều hơn là hạnh phúc. Được quá nhiều người thương và săn đón từ: thái tử, phú hộ, kẻ hào hiệp cho đến người thường dân, cô không biết phải lựa chọn ý trung nhân nào. Cha cô muốn con mình được hạnh phúc, môn đăng hộ đối cùng giai cấp, nên không đồng ý cho cô đính hôn với ai thuộc giai cấp thấp hơn. Ông tìm khắp nơi nhưng vẫn chưa hài lòng về ứng cử viên tương xứng. Một hôm nọ, ông đến thành Xá-vệ, thấy đức Phật đang đi khất thực, ông không tin vào mắt mình khi nhìn thấy một người đẹp trai lạ lùng đến thế! Với ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp, mặc dù chiếc y của Ngài mặc đã quá cũ, nhưng Phật vẫn đẹp và hấp dẫn. Ông nảy sinh ý định chọn Phật làm rể. Sau đó, ông lập kế thỉnh Phật về nhà cúng trai Tăng và dặn dò con gái:

- Con ơi, cha sẽ cưới cho con một người rất xứng đáng. Nét đẹp và sự phương phi của người này là điều không người đàn ông nào có thể hơn được. Nhất định khi lấy anh ta, con sẽ rất hạnh phúc. Đây là niềm mơ ước của cha.

Hôm ấy, đức Phật và Tăng đoàn đến nhà ông bá hộ theo lời thỉnh cầu. Ngài đi nhẹ nhàng với bước chân thảnh thơi, ngồi xuống trong tư thế an lạc. Gia đình ông ai cũng phấn chấn bởi nghĩ Phật sẽ trở thành chú rể. Suốt đêm, Magadida sửa soạn, trầm tư không ngủ được. Khi Phật đến nhà, cô không chịu ra, ở trong phòng trang điểm tăng thêm hương sắc và tập điệu bộ, dáng đi, cách thể hiện ánh mắt, nụ cười để quyến rũ Phật chấp nhận làm chồng mình. Trái với dự kiến, khi cô bước ra khỏi phòng, đức Phật dường như không quan tâm đến. Theo truyền thống, sau khi nhận phẩm vật cúng dường của ai, Phật tạ ơn bằng cách thuyết giảng pháp thoại, như thực phẩm tâm linh. Trong sự giao hoán này, một bên hiến vật chất, một bên tặng tâm linh. 

Đức Phật dụng ý giảng về sự bất tịnh của thân. Thân thể con người dù đẹp cũng chỉ là nghĩa trang, chứa đầy xác chết bên trong. Khi ăn thịt các loài thú, nói chung là loài có sự sống, ta đã biến bao tử này thành nghĩa trang tập thể. Ngài phê phán thái độ hãnh diện tự hào về sắc đẹp. Theo ngài sắc đẹp của thân chỉ là chiếc túi da chứa đựng những thứ bất tịnh mà thôi. Lời thuyết pháp của Phật như cơn sấm sét, tấn công vào não trạng của cô. Cô tức giận, cho rằng Thế Tôn chọc tức và khinh mình. Cô thầm nghĩ mình thuộc hàng sắc nước hương trời mà ông thầy tu lại so sánh cô như nghĩa địa hay cái túi da hư thúi, thì còn gì đau đớn cho bằng. Cô giữ mối thù đó và nói với cha:

- cha ơi, con không thèm cưới người này. Ông ta đẹp trai nhưng hách dịch quá, lại nghèo rớt mồng tơi sao làm chồng con được. 

Trong tâm cô oán hận, thầm nghĩ: “Đến ngày nổi tiếng, tôi sẽ cho ông biết tay, để ông không khinh thường tôi nữa”. Niềm uất hận đó đã được nuôi dưỡng trong lòng cô ngày càng lớn. Ba năm sau có đợt tuyển cung, vì là người đẹp nhất nên cô đã được nhà vua tuyển làm quý phi và được sủng ái hơn hoàng hậu. Nhà vua là Phật tử thuần thành. Một hôm, vua thỉnh đức Phật đến hoàng cung thuyết pháp. Khi nghe tin đó quý phi thuê người đứng dọc đường đến kinh thành, chửi bới đức Phật. Điều đó đã làm A Nan xót xa, thưa đức Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn, con thấy chỗ này không yên, nếu Thầy trò ta ở đây thêm nữa, vô tình tạo tội lỗi cho kẻ xấu. Chi bằng ta hãy đi nơi khác.

Đức Phật nói:

- Nếu đi chỗ khác cũng bị chửi bới tương tự thì sao?

A Nan thưa:

- Thì đi tiếp nữa.

Đức Phật nói:

- Nếu chỗ tiếp đó nữa cũng gặp tình trạng tương tự hoặc nặng hơn thì tính sao?

- Thì đi tiếp tục đi chỗ khác .


Triết lý của câu chuyện là khi con người để tình yêu mang tính chiếm hữu khống chế, thì các quan hệ sẽ dẫn đến tình trạng nếu không độc hữu về tình yêu được thì sanh tâm thù hận. Cô gái trong câu chuyện không quên được cái tự ái của mình, khi nghĩ rằng Phật đã khinh thường cô, mà trên thực tế Phật chỉ muốn giúp cô vượt qua cái tôi cao ngạo về ngoại hình. Tự ái sai lầm dẫn đến thù hận, rồi trả đũa bằng cách thuê người sỉ nhục đức Phật quả là một chuỗi sai lầm. Điều chính yếu của câu chuyện là trong nghịch cảnh đó, đức Phật dạy A Nan phải giữ tâm vững chãi để vượt qua, thay vì đầu hàng nó một cách vô điều kiện.

Câu chuyện trên còn cho thấy, kéo dài sự lẩn tránh không phải là giải pháp. Nghịch cảnh xuất hiện chỗ nào thì đối diện tháo gỡ chỗ đó. Nghệ thuật tháo gỡ khổ đau theo nhà Phật là đối diện với thực tại khổ đau đó và nhận diện mặt mũi khổ đau, truy nguyên nguồn gốc và nguyên nhân, để chuyển hóa và vượt lên trên nó. Trốn tránh không phải là giải pháp. Đối diện theo kiểu liều mạng lại càng không phải là giải pháp. Trốn tránh và bỏ mặc là hai thái độ cực đoan, nếu không nói là thiếu trách nhiệm. Cứ quan sát, nhìn nhận sự việc xảy ra như là một sự kiện. Lúc đó, nhìn thấy sự vật chỉ đơn thuần là sự thấy, nghe các âm thanh chỉ đơn thuần là sự nghe dù có chửi bới hay khen chê thì cũng chỉ là âm thanh. Quán được như vậy là đang nhìn thấy được chân tướng của sự vật. Lúc đó, ta không còn chạy theo phản ứng thuận và nghịch của cảm xúc. Tất cả dụng ý xấu của người khác không hề tác động đến thành trì kiên cố của đời sống nội tâm. Bằng cách thực tập như vừa nêu, nỗi khổ đau dù có mặt cũng không làm ta bị khủng hoảng.

Tình yêu vợ chồng là một mối quan hệ đặc biệt trong thế gian. Đó là sự gắn kết của hai trái tim, hai tâm hồn, hai số phận. Để duy trì được mối quan hệ này, cần có sự tôn trọng, chia sẻ, hi sinh và đồng cảm lẫn nhau. Người chồng không nên ép buộc người vợ phải làm theo ý mình, mà nên lắng nghe và thấu hiểu cảm xúc của bà xã. Người vợ cũng không nên đòi hỏi người chồng phải cung cấp cho mình những thứ vật chất, danh tiếng, địa vị, mà nên biết ơn và ủng hộ anh ta trong công việc và cuộc sống. Những thứ đó chỉ là phù du, không mang lại hạnh phúc bền lâu. Tình yêu vợ chồng nên như tình bạn, không có sự tranh giành, so sánh, mà chỉ có sự quan tâm, giúp đỡ, khuyên nhủ nhau. Đó là cách để nuôi dưỡng tình yêu chân thành và trưởng thành.

Đừng để tự ái chi phối hành vi của mình trong tình yêu vợ chồng. Tự ái là nguồn gốc của sự oán ghét, bất mãn, ghen tuông. Nếu để tự ái lớn lên trong lòng, thì tình yêu sẽ dần tan vỡ. Đức Phật khuyên, hãy dùng tình bạn làm nền tảng cho tình yêu vợ chồng. Dù đã sống chung bao nhiêu năm, vẫn nên coi nhau như những người bạn thân thiết. Thỉnh thoảng nên tổ chức những buổi kỷ niệm để tăng cường tình cảm và tinh thần thiện hữu tri thức. Thiện hữu tri thức là những người bạn có đạo đức, tuệ giác, giúp đỡ nhau trên con đường hướng về hạnh phúc viên mãn. Nếu sống theo lời dạy của Đức Phật, thì tình yêu vợ chồng sẽ không bao giờ tan vỡ. Hãy loại bỏ tự ái khỏi mọi mối quan hệ.  Thường xuyên hâm nóng lại tinh thần đó. Phương Tây thường tổ chức kỷ niệm 50 năm sau hôn nhân, hoặc ngắn hơn như 20 năm, 10 năm, để thắp sáng tinh thần bằng hữu hay thiện hữu tri thức, nói theo đạo Phật. Thiện tri thức là bạn có đạo đức, tuệ giác, nương tựa lẫn nhau, dìu dắt nhau để cả hai người cùng hướng về con đường hạnh phúc. Sống như vậy thì sự đổ vỡ sẽ không xuất hiện. Cần nhổ lên hạt giống tự ái trong các mỗi quan hệ. Được vậy, thế giới này sẽ có được màu xanh của bình yên bất tận.

Chủ Nhật, 18 tháng 2, 2024

SỰ GIÀU CÓ ĐÍCH THỰC

 


“Sự giàu có đích thực, bền chắc nhất chính là lòng từ bi và tình thương yêu”

 

Tất cả chúng ta, dù là Phật tử hay không, đều tin rằng Đức Quan Âm là hiện thân của lòng từ bi và tình thương yêu. Trong cuộc sống hiện nay, các xúc tình tật đố và sân giận vô cùng mạnh mẽ gây ra vô số chướng ngại cho chúng ta. Do đó, chúng ta cần trưởng dưỡng tình thương yêu và lòng bi mẫn thông qua thực hành pháp tu Quan Âm để giảm bớt và đoạn trừ ganh ghét và mọi rắc rối phát sinh trong tâm. Lòng từ bi cần được hiểu như một quá trình phát triển của trí tuệ 

Nếu Đức Quan Âm là Đức Phật của lòng từ bi vị tha thì Đức Zambala Hoàng Tài Bảo Thiên lại tượng trưng cho sự giàu có thịnh vượng. Hai vị Phật này có mối liên hệ mật thiết với nhau, và bạn cần hiểu rằng sự giàu có bền chắc đích thực nhất chính là lòng từ bi và tình thương yêu. Nếu không có tình thương yêu, mọi thứ như tiền bạc, của cải, gia đình, công việc,... bất cứ thứ gì ta sở hữu cũng trở thành vô nghĩa. Tình thương yêu là thứ tài bảo quý giá chân thật nhất ta cần hướng đến.


Do vô minh, chúng ta đã hiểu lầm rất tai hại về sự giàu có. Chúng ta luôn chạy theo những cám dỗ phù du hư ảo bên ngoài trong khi trên thực tế, điều chúng ta cần và thiếu nhất trong cuộc sống lại là tình thương yêu dồi dào sung mãn. Dù cho bạn có tất cả tài sản, tiền bạc, danh tiếng, quyền lực, nhưng nếu thiếu cảm xúc yêu thương và lòng từ bi, bạn không thể thực sự viên mãn. 


Trên thực tế có rất nhiều người không phải đạo Phật và họ không thực hành pháp Zambala hay Quán Thế Âm nhưng họ cũng làm ra rất nhiều của cải hàng tỉ, hàng triệu đô la. Vấn đề ở đây là cho dù họ có nhiều tiền bạc, liệu họ có thực sự hạnh phúc?. Câu trả lời là nếu thiếu đi tình thương yêu và lòng từ bi, bạn sẽ không thể có hạnh phúc viên mãn. Dù mọi thứ xảy ra, hạnh phúc nội tâm sẽ hàng phục mọi chướng ngại và giúp chúng ta an lạc trên suốt hành trình cuộc đời.

Tất cả chúng ta cần giàu có về tài vật nhưng lại càng cần hạnh phúc đến từ tình yêu thương. Bất kỳ sự giàu có nào cũng đến từ yêu thương, bởi sự giàu có đích thực chính là hạnh phúc. Mọi thứ đều là vòng tròn tiếp nối: lòng từ bi đem đến hạnh phúc, hạnh phúc đem tới sự giàu có và sự giàu có tự bản thân là lòng từ bi và tình yêu thương. Do đó, mỗi chúng ta đều cần có cả lòng từ bi, hạnh phúc và sự giàu có để cuộc sống được viên mãn vẹn toàn. Có rất nhiều người giàu có về vật chất nhưng không hề hạnh phúc, đơn giản vì ở họ thiếu đi tình thương yêu. Bạn cần biết cuộc sống tươi đẹp nhiệm màu này có được nhờ năng lượng tỏa sáng của tình yêu thương và lòng bi mẫn. Tất cả sự giàu sang sẽ trở nên vô ích nếu không giúp trưởng dưỡng tình thương yêu. Do đó, việc thực hành pháp tu Đức Quan Âm là cần thiết, bất kể bạn có phải là Phật tử hay không. Pháp tu Hoàng Tài Bảo Thiên cũng cần được thực hành cùng với phẩm hạnh của Đức Quan Âm. Tài bảo vật chất không phải là mục đích chính của pháp tu, điều quan trọng là bạn trưởng dưỡng được tình thương yêu và lòng bi mẫn hướng đến mọi người, mọi loài, trong đó có chính bản thân mình.

 Theo pháp thoại Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa 


**Đức Jambala (còn được gọi là Dzambala) là vị thần Tài Bảo và là một thành viên của gia đình Châu Báu (Bảo Bộ). Ngài được tin tưởng là một hóa thân của Quan Thế Âm, vị Phật của Lòng Bi Mẫn, hiện lộ là vị Phật ban phát tài bảo.Đức Bản Tôn Hoàng Tài Bảo Thiên, còn được gọi là Dzambhala, là một hóa thân của Quán Thế Âm Bồ Tát trong Phật Giáo Tây Tạng. Ngài đại diện cho lòng từ bi và thường được thần hóa dưới dạng vị Phật mang đến sự thịnh vượng và tài lộc. 

Thứ Bảy, 17 tháng 2, 2024

Đọc suy ngẫm

 Cổ nhân có một câu nói rất hay ‘Phúc bất trùng lai, họa vô đơn chí’, đời người vạn vạn sự, là phúc hay họa chẳng thể đoán trước được.  Dưới đây là 3 câu chuyện sẽ khiến bạn có những góc nhìn khác về quan niệm tốt xấu, phúc họa đời người. 

Câu chuyện thứ nhất

Hai người đàn ông chẳng may cùng bị rơi xuống nước. Một người có thị lực vô cùng tốt, một người bị cận nặng. Trong con sông rộng lớn, họ ra sức vùng vẫy khiến sức lực dần cạn kiệt.

Đúng lúc tưởng chừng như vô vọng, đột nhiên người có thị lực tốt nhìn thấy phía trước có một chiếc thuyền nhỏ đang di chuyển hướng dần về phía họ, người bị cận nặng cũng nhìn thấy lờ mờ. Cả hai vui mừng khôn xiết, cố lấy hết sức bình sinh, nỗ lực bơi về phía thuyền nhỏ. 

Khi bơi gần tới nơi, người có thị lực tốt đột nhiên dừng lại bởi anh đã thấy rõ đó không phải thuyền nhỏ nào cả, mà chỉ là một khúc gỗ mục trôi nổi giữa dòng. 

Vậy nhưng người cận thị lại không hề hay biết điều đó, anh vẫn ra sức, miệt mài bơi lên. Cuối cùng anh cũng bơi đến chỗ ‘thuyền nhỏ’, rồi phát hiện ra ‘chiếc thuyền nhỏ’ chỉ là miếng gỗ mục căn bản không phải là thuyền gì cả, tuy vậy lúc ấy anh lại cách bờ không xa , do đó anh cố gắng để bơi vào bờ.

Khi người bị cận bơi được vào bờ, thì người có thị lực tốt đã bị chìm dần xuống nước, mặt sông lại phẳng lặng yên ả như chưa từng có chuyện gì xảy ra. 


Kết luận:

Người bị cận thị vì mắt nhìn không rõ mà may mắn thoát nạn, có một cuộc sống mới. Còn người có thị lực tốt vì tin vào điều đôi mắt nhìn được mà cứ vậy kết thúc sinh mệnh của bản thân. Đôi khi mắt nhìn không thể phán đoán hay quyết định mọi việc.


Câu chuyện thứ hai 


Tại một bệnh viện nọ có 2 bệnh nhân bị ung thư. Một lần nọ, một người vô tình nghe được cuộc trò chuyện của bác sĩ, nói rằng cả 2 người họ chỉ còn sống được không quá 3 tháng. 


Người còn lại bị lãng tai, cho dù có đứng trước mặt nói trực tiếp thì anh cũng nghe không rõ chứ đừng nói đến việc nghe được nội dung cuộc nói chuyện từ đằng xa của bác sĩ. 


Người có thính lực bình thường kia, sau khi nghe được lời của bác sĩ, tâm tình bị ảnh hưởng, 2 tháng sau thì bệnh tình trở nặng rồi qua đời. 


Vậy nhưng điều lạ là người bệnh bị lãng tai kia chẳng những đã sống hơn 3 tháng, mà hiện đã hơn 2 năm trôi qua, anh vẫn sống rất khỏe mạnh.

Kết luận:

Đôi khi chúng ta không cần phải nghe những điều mình không muốn nghe. Sống lạc quan để vượt qua những chướng ngại trong cuộc đời.

Câu chuyện thư ba

Robert và Steve Job lần lượt là tổng giám đốc của 2 công ty có quy mô ngang nhau.

Robert là người giỏi tính toán, có tầm nhìn xa và rộng hơn người, anh vì thế đã sớm dự đoán được việc đến năm 2008 nước Mỹ sẽ rơi vào khủng hoảng tài chính. 

Theo phân tích của anh, thời điểm trên nước Mỹ sẽ có 30% doanh nghiệp phải đóng cửa, và với công ty nhỏ như hiện nay của anh, chắc chắn không thể thoát khỏi cảnh phá sản. 

Từ đó, Robert quyết định giải thể công ty sớm, trước khi đợt khủng hoảng trên xảy ra, vì chí ít còn có thể giữ lại cho các công nhân viên được chút tiền sinh hoạt, tránh để đến thời điểm trên sẽ rơi vào cảnh nợ nần chồng chất.

Về phần Steve, anh không giỏi tính toán, thậm chí người khác còn cảm thấy anh có phần ngốc nghếch. 

Với suy nghĩ ngây ngô của mình, Steve cho rằng tương lai là điều vĩnh viễn không thể dự đoán được. Vậy nên dù có người nào đem bản kế hoạch hoàn hảo nhất thế giới đến đặt trước mặt Steve, anh cũng sẽ không tin tưởng, bởi đối với anh thì tương lai vẫn chưa thật sự đến.

Và cũng vì thế mà Steve cảm thấy công ty chỉ cần có thể tồn tại một ngày, thì nỗ lực chống đỡ thêm một ngày. Kết quả là kỳ tích đã xảy ra, công ty của Steve đã vượt qua cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu một cách đầy ngoạn mục.

Cuối cùng người giỏi tính toán lại đem công ty giải thể, mà người bị cho là ngốc nghếch lại giúp công ty ngày càng đi lên.

Kết luận:


Đời người vạn sự, là phúc hay họa chẳng thể đoán trước được, chỉ có thể dùng tâm thiện lương và phải có một niềm tin tuyệt đối vào bản thân đối đãi với mọi việc thì cuối cùng mới không ân hận. Điều mắt thấy chưa chắc đã đúng, tai nghe cũng không nhất định là chân thực; tốt xấu xuất tự một niệm, phúc họa cũng từ đó mà sinh ra.

Thứ Sáu, 16 tháng 2, 2024

Bố thí vô úy thí là gì và tại sao nó quan trọng trong đạo Phật?


 Bạn là những người con Phật thì chuyện bố thí là chúng ta thường nghe trong các lời giảng dạy, kinh điển. Tuy nhiên để hiểu thấu đáo sự bố thí trong Đạo phật vì bố thí có rất nhiều cách và tại sao lại có sự bố thí vô úy thí. 

Theo Phật học thì bố thí có nghĩa là việc cho đi những gì mình có, mình biết, để lợi lạc cho chúng sanh. Đây là hạnh tu hàng đầu trong “Lục Độ Ba La Mật” và “Tứ Nhiếp Pháp”. Bố thí có ba loại:

Tài thí (Bố thí tiền bạc): Đây là việc cho đi những tài sản vật chất, như tiền bạc, của cải để giúp người khác.

Pháp thí (Bố thí phật pháp): Bố thí pháp là việc truyền đạt những chân lý, lời dạy của Phật để giúp người khác hiểu rõ hơn về cuộc sống và làm cách nào để được giải thoát.

Vô úy thí (Giúp người không sợ hãi): Vô úy thí có nghĩa là bố thí sự không sợ hãi, tức là làm cho người khác được an tâm yên chí, không sợ gì cả. Điều này liên quan đến việc giúp người khác vượt qua nỗi sợ hãi, đặc biệt là sợ chết. 

Trong bài viết này tối muốn nhấn mạnh đến hạnh bố thí vô úy thí là một trong ba loại bố thí của người tu Phật, bên cạnh tài thí và pháp thí. Đây là hạnh bố thí rất quan trọng mà chúng ta nên thực tập. Như đã nói trên Bố thí vô úy thí có nghĩa là giúp người khác được không sợ hãi, an tâm yên chí, đặc biệt là khi đối mặt với sự chết. Đây là một hạnh bố thí rất lớn, vì nó cho thấy lòng từ bi và trí tuệ của người tu Phật.

Bố thí vô úy thí có thể được thực hiện bằng nhiều cách, như:

- Trấn an, động viên, an ủi người khác khi họ gặp khó khăn, hoảng loạn, sợ hãi.

- Bảo vệ, giúp đỡ, cứu giúp người khác khi họ bị bắt nạt, bị hại, bị nguy hiểm.

- Chia sẻ, truyền đạt những lời dạy của Phật về sự vô thường, vô ngã, nhân quả, giải thoát để giúp người khác hiểu rõ hơn về cuộc sống và cách tu tập.

- Tham gia các hoạt động từ thiện, xã hội để mang lại sự an lành cho chúng sanh.

- Cầu nguyện, niệm Phật, tụng kinh cho người khác để họ được an bình trong tâm và được siêu thoát khi qua đời.

Bố thí vô úy thí không chỉ mang lại lợi ích cho người được bố thí mà còn cho người bố thí. Khi chúng ta bố thí vô úy thí, chúng ta sẽ đạt được các lợi ích sau :

- Tăng cường lòng từ bi và trí tuệ của mình.

- Giảm bớt lòng ích kỷ và sân si của mình.

- Tạo ra nhiều phước lành cho mình ở đời này và đời sau.

- Được sự quan tâm, yêu mến, kính trọng của chúng sanh.

Do đó, chúng ta nên coi trọng việc bố thí vô úy thí và cố gắng tu tập theo hạnh bố thí này . Bố thí vô úy thí là một cách để chứng minh lòng thành kính của chúng ta đối với Phật và là một cách để phát triển tâm linh của chúng ta.

Cho nên hạnh bố thí không chỉ liên quan đến việc cho đi vật chất, mà còn đến việc truyền đạt kiến thức và tạo ra sự an tâm cho người khác. Riêng việc bố thí chúng ta phải biết cách bố thí để tạo thêm phước lành cho mình và cho chúng sanh. Chúng ta phải tìm học giáo lý đạo Phật để hiểu thêm về cách bố thí như thế nào thì việc cho đi của mình mới có ý nghĩa.  Bố thí vô úy thí là một phần lớn không thể thiếu trong con đường tu tập.


Thứ Năm, 15 tháng 2, 2024

Lam Rim-- Đường tu tuần tự đến giác ngộ


Lam rim là tiếng Tây Tạng có nghĩa đường tu tuần tự. Đây là cách kết hợp các giáo pháp cơ bản của Đạo Phật để chúng ta đem vào đời sống. Lam rim là một khái niệm quan trọng trong Phật giáo Tây Tạng, nó chỉ ra cách thức tu tập theo một trình tự hợp lý và khoa học. Lam rim được dịch là "đường tu tuần tự", bởi vì nó bao gồm các bước đi từ cơ bản đến nâng cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ thấp đến cao, để người tu tập có thể tiến bộ dần dần trên con đường giải thoát.

Lam rim được hình thành dựa trên những bài giảng của Đức Phật, nhưng không phải là một sự sao chép nguyên văn. Mà là một sự sắp xếp lại theo một thứ tự có hệ thống, để phù hợp với nhu cầu và khả năng của người nghe. Đó là sự khéo léo của các bậc đại sư Tây Tạng, như Atisha, Tsongkhapa, và các đệ tử của họ, khi họ biên soạn ra những cuốn sách lam rim nổi tiếng.

Lam rim không chỉ là một lý thuyết khô khan, mà là một phương pháp thực hành. Nó giúp người tu tập xây dựng nền tảng vững chắc cho tâm linh, bằng cách rèn luyện ba yếu tố chính: động lực, định tâm và trí tuệ. Động lực là sức mạnh thúc đẩy ta tu tập, định tâm là sự tĩnh lặng và thanh thản của tâm, trí tuệ là sự hiểu biết sâu sắc về chân lý.

Đức Phật luôn thuyết pháp với điều mà chúng ta gọi là “phương tiện thiện xảo”, nói về phương tiện giảng dạy người khác theo cách mà họ có thể lãnh hội được. Đó là điều cần thiết, bởi vì đã có, và tất nhiên vẫn còn có rất nhiều căn cơ khác nhau. Điều này dẫn đến việc Đức Phật thuyết giảng về nhiều đề tài, ở những cấp độ rất khác biệt và ở những người có cơ duyên gặp ngài.

Ý nghĩa thật sự của đường tu tâm lình chính là các phương pháp để phát triển định tâm rất phổ biến trong thời kỳ Phật còn tại thế . Tất cả mọi người đều đồng ý rằng cần phải xem xét cách làm thế nào để có thể kết hợp định tâm và tất cả những khía cạnh khác vào đường tu tâm linh, đối với cách phát triển tự thân. Đó là động lực của chính bản thân mình

Những gì được xếp loại trong lam-rim thường là động lực của mình, mà theo sự trình bày của đạo Phật, là một điểm gồm có hai phần. Động lực được kết nối với một mục tiêu hoặc chủ đích nào của mình, cộng với một cảm xúc thúc đẩy ta đạt được mục tiêu ấy. Thậm chí nói một cách chính xác hơn thì có lý do tại sao mình muốn đạt được mục tiêu, cộng với một cảm xúc thúc đẩy mình đến đích.

Điều này hoàn toàn có ý nghĩa, về mặt đời sống hàng ngày,, và chúng ta cũng có những mục tiêu khác nhau ở các giai đoạn khác nhau trong cuộc sống. Ví dụ, mình muốn có một nền giáo dục, hay gặp được một người bạn đời, hay tìm một công việc tốt, v.v... Có thể có những cảm xúc tích cực, cũng như những cảm xúc tiêu cực liên quan đến điều này, và đối với mọi người thì chúng không giống nhau. Trong bất kỳ trường hợp nào thì sự trình bày về trình tự động lực này là điều được áp dụng vào đời sống bình thường.

Điều tương tự cũng đúng về mặt động lực tâm linh. Đây là những tâm trạng hoàn toàn phù hợp với đời sống hàng ngày. Chúng ta đang làm gì với cuộc sống của mình? Khi mình có gia đình, công việc, v.v... thì có “phương diện thế gian”. Nhưng chúng ta đang làm gì ở phương diện tâm linh? Điều này cũng ảnh hưởng đến cách mình sống. Điều rất quan trọng là hai phương diện trong cuộc sống của mình không mâu thuẫn hay hoàn toàn tách rời nhau, mà lại hòa hợp với nhau một cách hài hòa.

Chúng không chỉ cần phải hài hòa, mà mỗi khía cạnh này cần phải hỗ trợ khía cạnh kia. Đời sống tâm linh nên cho ta sức mạnh để dẫn dắt đời sống thế gian thông thường, trong khi đời sống thế gian sẽ cung cấp cho mình vật chất, để có thể thực hành đời sống tâm linh. Tất cả những điều mà mình học hỏi qua các giai đoạn của Lam-rim cần phải được áp dụng vào đời sống hàng ngày.   

Rồi thì chúng ta đang làm gì với pháp tu được trình bày ở đây? Nói chung thì pháp tu nhà Phật có thể được tóm tắt trong một vài chữ. Nói một cách đơn giản thì chúng ta đang nỗ lực để trở thành người tốt hơn. Có thể là chữ “người tốt hơn” nghe có vẻ phán xét, nhưng hoàn toàn không có sự phán xét nào được ngụ ý ở đây. 

Để trở thành một “người tốt hơn” thì trước tiên, ta sẽ muốn chấm dứt hành động phá hoại, khi mà mình gây hại cho người khác. Đối với điều này, ta sẽ phải thực hiện sự tự chủ nào đó. Ở mức độ sâu hơn, một khi có thể làm điều này thì ta sẽ tập trung vào việc khắc phục những gì khiến mình hành động một cách phá hoại, như sân hận, tham lam,  luyến ái, ganh tỵ, thù hận và vân vân. Để thực hiện điều này thì phải hiểu cách những cảm xúc tiêu cực này phát sinh và cách chúng hoạt động. Theo cách này, ta sẽ phát triển một số hiểu biết để giảm bớt hay đoạn diệt những phiền não này.

Sau đó, ta có thể đi sâu hơn và làm việc với những gì tiềm ẩn đàng sau tất cả những phiền não này, bằng cách nhận ra tâm ích kỷ và vị kỷ, chỉ suy nghĩ cho bản thân mình. Ta thường nghĩ rằng, “Mọi việc phải xảy ra theo ý muốn của mình.”. Khi sự việc không xảy ra theo cách mình muốn thì mình thường tức giận. Dù ta luôn luôn muốn mọi việc phải diễn tiến theo ý mình, nhưng tại sao lại phải như vậy? Hoàn toàn không có lý do gì cả, ngoại trừ việc mình muốn nó như thế. Tất cả mọi người đều nghĩ giống nhau, nhưng không phải tất cả chúng ta đều đúng.

Theo thời gian, chúng ta sẽ dần dần tu tập đến mức có thể khắc phục điều tạo ra rắc rối cơ bản nhất này. Khi phân tích lòng ích kỷ thì nó phụ thuộc vào khái niệm về “mình” và “bản ngã” của tôi. Nói cách khác thì khái niệm về cách mình tồn tại dựa trên ý tưởng này, rằng “tôi là một người đặc biệt”, như thể mỗi một người là trung tâm vũ trụ, là người quan trọng nhất, độc lập với tất cả những người khác. Chúng ta phải khảo sát nhận thức này, bởi vì rõ ràng là có một điều gì rất sai lầm và bị bóp méo về nó. Đây chính là điều mà đường tu tuần tự giải quyết.

Lam rim không phải là một con đường cứng nhắc hay đơn điệu, mà là một con đường linh hoạt và phong phú. Nó có thể thích ứng với nhiều loại người, nhiều hoàn cảnh và nhiều mục tiêu khác nhau. Nó cũng không phải là một con đường riêng biệt hay tách rời, mà là một con đường liên kết và hòa hợp với những giáo pháp khác của Phật giáo. Nó là một con đường toàn diện và hoàn thiện, để người tu tập có thể đạt được trạng thái giác ngộ cao nhất.

Biết Trách Ai Đây?

 Khi đọc xong bài viết “Biết Trách Ai Đây?” của sư Toại Khanh là một tùy bút đậm chất suy tư, chất chứa nỗi niềm trước cảnh đời éo le, những...