Các nhà tâm lý học phương Tây nói rằng thiền là một hiện tượng chủ quan nên không thể thực hiện nhiều nghiên cứu tâm lý. Ông có đồng ý không?
Tôi không đồng ý, vì theo tôi, không thể có bất kỳ nghiên cứu nào. Bạn nói "không thể thực hiện nhiều nghiên cứu tâm lý." Chính vì vậy mà tôi không đồng ý.
Nội tâm của con người, tính chủ thể của anh ta, là điều không thể xâm phạm. Không có cách nào để biến nó thành đối tượng nghiên cứu. Nghiên cứu là hoàn toàn bất khả – thậm chí ngay cả "tìm kiếm" còn chưa được thực hiện đúng nghĩa, huống gì là "nghiên cứu".
Con người có thể trải nghiệm chủ thể của chính mình, nhưng anh ta không thể mời một nhà nghiên cứu bước vào bên trong để khám phá xem anh ta là ai. Điều này là bất khả từ bản chất. Và thật may mắn khi điều đó bất khả – bởi vì chủ thể tính của bạn, ít nhất, luôn là điều riêng tư, luôn là tự do của bạn. Không ai có thể xâm phạm nó.
Vâng, một người có thể tự mình nghiên cứu nội tâm, và có thể cố gắng dùng lời nói để diễn tả những gì anh ta đã khám phá trong chính mình. Có thể điều đó sẽ gợi mở cho bạn một phần ý niệm nào đó về chính chủ thể tính của mình – không hoàn toàn giống, nhưng là một tia nhìn thoáng qua, hay ít nhất là một khả năng: rằng có một bản thể sâu thẳm bên trong bạn cần được khám phá; một sự khích lệ: nếu người khác làm được, thì tại sao bạn không thể? Có thể, những phương pháp anh ta dùng cho hành trình nội tâm của mình sẽ giúp bạn tìm được những cách thích hợp cho chính bạn – có thể cần điều chỉnh chút ít, nhưng những phương pháp đó vẫn có thể áp dụng.
Có 112 phương pháp thiền định để quay vào bên trong, đã tồn tại suốt 10.000 năm. Không thể thêm một phương pháp nào nữa. Khoa học của cuộc tìm kiếm nội tâm đã hoàn chỉnh. Bạn chỉ cần xem qua 112 phương pháp ấy – và theo trải nghiệm của tôi cũng như nhiều người sannyasin (đệ tử) của tôi, khi bạn gặp đúng phương pháp dành cho mình, bên trong bạn sẽ có một niềm hân hoan lập tức – như thể trái tim bạn vừa được chạm đến, như thể một chiếc chuông bắt đầu ngân vang trong bạn.
Chỉ cần đi qua những phương pháp đó – mỗi phương pháp chỉ được mô tả trong hai dòng – bạn đọc thật chậm và cảm nhận phương pháp nào đồng điệu với bạn. Rồi hãy thử. Rất có thể đó chính là phương pháp dành cho bạn. Nếu thử mà không hiệu quả, hãy tìm tiếp. Có thể có phương pháp khác phù hợp hơn. Nhưng đối với toàn nhân loại, tất cả các phương pháp đều đã có sẵn.
Bạn có thể nhận biết bằng vài triệu chứng: khi bạn đến với đúng phương pháp, một điều gì đó bừng sáng trong con người bạn. Tâm trí bạn rơi vào tĩnh lặng. Bạn biết chắc chắn, không phải từ bất kỳ thẩm quyền bên ngoài nào, mà từ chính nhịp tim của mình, rằng: “Đây là phương pháp dành cho mình.”
Và khi bạn bắt đầu thực hành, bạn sẽ cảm thấy thư giãn, đơn giản, êm dịu.
Ở mỗi bước đi, bạn sẽ cảm thấy mình vững chãi hơn, có gốc rễ hơn – không còn giả tạo, không còn là kiểu người Mỹ nhựa, không còn "diễn." Lần đầu tiên, bạn sẽ thật sự cảm thấy mình là người chân thật, nguyên bản. Và khi bạn đi sâu hơn với phương pháp ấy, bạn sẽ cảm thấy niềm vui, sự nhạy cảm, ngày càng gia tăng. Một tình yêu vô điều kiện, không hướng đến ai cả – chỉ là một trường yêu thương bao quanh bạn. Và khi bạn chạm đến trung tâm thực sự của bản thể mình, sẽ có một vụ nổ ánh sáng vĩ đại, kèm theo một hương thơm mà bạn chưa từng biết đến.
Những ai có tâm thức nhạy bén có thể cảm nhận được rằng điều gì đó vĩ đại đã xảy ra với bạn, bởi vì khuôn mặt bạn sẽ mang một phẩm chất đặc biệt mà bạn có thể thấy ở các bức tượng Phật. Đôi mắt bạn, lần đầu tiên, sẽ có một từ lực. Cử chỉ bạn sẽ có một vẻ thanh thoát. Toàn bộ con người bạn sẽ là một vẻ đẹp, một phước lành, cho chính bạn và cho toàn thể vạn vật. Khi trải nghiệm ấy chín muồi, bạn trở thành một phước lành cho toàn thể sự sống.
Đúng là không thể có nghiên cứu khách quan nào đối với điều này, nhưng điều đó không có nghĩa là thế giới chủ quan không tồn tại. Kết luận như vậy là ngu xuẩn. Nó giống như một người mù không thấy được ánh sáng, rồi kết luận rằng ánh sáng không tồn tại.
Có những điều có thể nghiên cứu khách quan, nhưng chúng luôn là đồ vật – không phải sự sống, không phải tình yêu, không phải ý thức. Tất cả những gì vĩ đại đều là chủ quan. Và một trong những bất hạnh lớn nhất của nhân loại là các nhà khoa học cứ khăng khăng rằng: nếu không thể nghiên cứu một cách khách quan, thì nó không tồn tại. Nếu vậy thì trong phòng thí nghiệm của Albert Einstein, mọi thứ đều tồn tại ngoại trừ chính Albert Einstein.
Thế thì ai đang làm thí nghiệm? Ai quan sát, ai nghiên cứu, ai khám phá ra electron, proton, neutron? Chúng tồn tại vì chúng có thể đo lường một cách khách quan. Nhưng Albert Einstein không tồn tại, vì ý thức của ông không thể bị nghiên cứu khách quan. Đó là một sự ngu dốt khủng khiếp.
Mắt bạn không thể nghe nhạc – nhưng điều đó không có nghĩa là âm nhạc không tồn tại. Tai bạn không thể thấy ánh sáng – nhưng điều đó không có nghĩa là ánh sáng không có. Nó chỉ đơn giản có nghĩa là bạn đang dùng sai phương tiện – dùng tai để nhìn, dùng mắt để nghe.
Phương pháp nghiên cứu khách quan là dành cho sự vật, vật chất. Còn cuộc hành trình vào bên trong – vì nó không phải nghiên cứu vật chất, mà là ý thức – cần những phương pháp khác. Những phương pháp ấy chính là thiền định.
Với thế giới khách quan, chúng ta dùng quan sát, thí nghiệm – đó là phương pháp. Với thế giới chủ quan, chúng ta dùng chứng kiến, trải nghiệm – đó mới là phương pháp.
Và một trong những quy luật cơ bản của khoa học là: mọi thứ tồn tại đều có mặt đối cực của nó. Mà mặt đối cực không phải là mâu thuẫn, mà là bổ sung. Nếu có tình yêu thì phải có thù hận; nếu có cái đẹp thì phải có cái xấu. Và nếu có thực tại khách quan, thì bạn không thể phủ nhận thực tại chủ quan – nếu không, bạn đang đi ngược lại chính quy luật cơ bản của khoa học. Thực tại khách quan đòi hỏi phải có thực tại chủ quan như một đối cực bổ sung. Và hiển nhiên, không thể áp dụng cùng một phương pháp cho cả hai. Phải dùng những phương pháp khác nhau.
Thiền không giúp bạn tìm ra năng lượng nguyên tử hay vũ khí hạt nhân – nếu có, phương Đông đã phát hiện những điều vô nghĩa đó từ lâu. Và các phương pháp khách quan sẽ không bao giờ cho phép bạn khám phá bản chất thực sự của con người. Mà nếu không biết bản chất thật của mình, bạn có thể có tất cả của cải vật chất trên đời, nhưng sâu thẳm bên trong, bạn vẫn là một kẻ bần cùng, khốn khổ.
Phương Đông và phương Tây – cách tiếp cận khách quan và cách tiếp cận chủ quan – mỗi bên chỉ là một nửa. Nỗ lực của riêng tôi là kết hợp chúng lại thành một. Không cần phải chia tách.
Rudyard Kipling từng nói: “Tây là Tây, Đông là Đông, và hai bên chẳng bao giờ gặp nhau.” Ông ta đã chết, nhưng đôi khi tôi muốn kéo ông ta ra khỏi mộ và hỏi: “Vạch ranh giới nào chia Đông và Tây? Chúng đang gặp nhau ở khắp nơi.”
Bạn, so với một nơi nào đó, là Đông; so với nơi khác, là Tây. Thật ngớ ngẩn khi nói rằng “hai bên chẳng bao giờ gặp nhau.” Chúng luôn luôn gặp nhau ở mọi điểm, vì cùng một điểm có thể được gọi là Tây hoặc là Đông. Calcutta nằm phía đông của Bombay, Bombay lại phía tây của Calcutta. Nhưng Calcutta nằm phía tây của Rangoon, và Rangoon lại phía đông của Calcutta.
Rudyard Kipling là thi sĩ triều đình của Đế quốc Anh. Theo tôi, ông ta đơn giản chỉ là một kẻ ngốc. Đông và Tây đang gặp nhau khắp nơi, trừ trong tâm trí con người. Mọi việc sẽ dễ dàng hơn – chỉ cần tâm trí con người thay đổi. Trong thực tại, không có sự chia cắt nào cả – sự chia cắt chỉ là trong tâm thức.
Và trong những người sannyasin của tôi, sự chia cắt đó đã biến mất. Họ không thuộc về Đông hay Tây.
Họ nhận toàn bộ trái đất này là của họ.
Họ nhận cả thế giới khách quan là của họ. Họ nhận cả thế giới chủ quan là của họ.
Để biểu tượng điều này, tôi gọi người mới là Zorba the Buddha. Zorba đại diện cho hướng tiếp cận vật chất, khách quan. Buddha đại diện cho hướng tiếp cận tâm linh, chủ quan.
Tách rời, cả hai đều nghèo nàn. Không ai là một vòng tròn trọn vẹn. Khi kết hợp lại, họ trở nên giàu có vô biên. Khi được hợp nhất, họ trải nghiệm niềm cực lạc vĩ đại nhất mà nhân loại có thể đạt đến.
— Osho
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét