Chủ Nhật, 31 tháng 3, 2024

Triết lý về hạnh phúc: Hành trình xuyên qua trí tuệ phương Đông


Trong quá trình theo đuổi hạnh phúc, trí tuệ cổ xưa “Thân vô bệnh, tâm không phiền não” có nghĩa là “Một cơ thể khỏe mạnh và một tinh thần không lo lắng là những món quà quý giá nhất trong cuộc sống”, vẫn còn vang vọng sâu sắc cho đến tận ngày nay. Câu tục ngữ Việt Nam này gói gọn bản chất của một cuộc sống cân bằng, nơi sức khỏe thể chất và sự bình yên tinh thần hòa quyện vào nhau.

 Người xưa sống tự do tự tại, thuận theo tự nhiên, “ngày nắng đi cày, ngày mưa đọc sách”, nên thân thể luôn khỏe mạnh, nội tâm thường an hòa.  Người xưa tin rằng sống hòa hợp với thiên nhiên là chìa khóa để duy trì sự cân bằng này. Họ sống cuộc sống giản dị, tuân theo nhịp điệu của thế giới tự nhiên, làm việc dưới ánh mặt trời và đọc sách vào những ngày mưa. Mối liên hệ này với thiên nhiên đảm bảo rằng họ vẫn có sức khỏe dồi dào và tinh thần thanh thản.


Cuộc sống hiện đại với vô số áp lực từ công việc, học tập, gia đình thường dẫn đến căng thẳng về thể chất và tinh thần. Mọi người chuyển sang sử dụng thuốc, thực phẩm bổ sung và thực phẩm bổ dưỡng để chống lại tình trạng này, nhưng y học phương Đông cổ đại cho rằng chỉ những thứ này thôi thì chưa đủ. Nó dạy rằng một đời sống nội tâm đạo đức nuôi dưỡng sự bình tĩnh và ấm áp, từ đó thúc đẩy dòng năng lượng và máu lành mạnh trong cơ thể. Khi tinh thần ngay thẳng, cơ thể cũng theo đó.


Khoa học đương đại ủng hộ quan điểm này, thừa nhận rằng nhiều bệnh mãn tính ngày nay xuất phát từ căng thẳng về tinh thần và cảm xúc. Như vậy, y học hiện đại cũng thừa nhận tầm quan trọng của việc giảm căng thẳng để duy trì sức khỏe. Câu tục ngữ  “Thân vô bệnh, tâm không phiền não” nhắc nhở chúng ta rằng khi còn trẻ, chúng ta có thể theo đuổi thành công, tình yêu, danh vọng và giàu có, thường phải trả giá bằng sức khỏe của mình. Tuy nhiên, khi chúng ta già đi và sức sống suy yếu, chúng ta nhận ra giá trị đích thực của sức khỏe và bắt đầu khám phá những cách để bảo tồn nó.

Triết lý này khuyến khích cách tiếp cận toàn diện đối với sức khỏe, nhấn mạnh sự cần thiết của một tâm trí bình tĩnh và tinh thần hài hòa. Nó gợi ý rằng hạnh phúc thực sự không chỉ là không có bệnh tật mà còn là sự hiện diện của sự bình yên nội tâm. Đó là lời nhắc nhở rằng trong hành trình tìm kiếm một cuộc sống trọn vẹn, chúng ta không nên bỏ qua nền tảng cốt lõi của sự tồn tại của mình: sức khỏe và sự bình yên trong tâm hồn.

Tâm vô sự là một tâm hồn an nhiên, tự do tự tại, không bị ràng buộc bởi thị phi, là một nội tâm trong sáng, thuần khiết, không phủ bụi trần. Dẫu là lúc bận rộn hay nhàn nhã thì vẫn có thể bảo trì được sự bình thản, an nhiên. Người không bị lợi ích quấy nhiễu, không bị sắc tình cám dỗ, không bị vật chất mê hoặc, không cuốn vào vòng xoáy dục vọng, thì mới có thể thưởng thức được dư vị chân chính của cuộc sống, tìm về với bản nguyên tốt đẹp của sinh mệnh.

Ngày nay, rất nhiều người sử dụng quỹ thời gian của mình để giành giật và tranh đấu, luôn ở trong trạng thái căng thẳng và lo âu. Cuốn vào vòng xoáy của kim tiền và vật chất, nhiều người đã không còn biết đến cảm giác thong dong, điềm tĩnh và tự tại. Thật ra khi thực sự cảm thấy mệt mỏi, hãy bớt chút thời gian, rời xa nơi phố thị ồn ã, thưởng thức một ly trà, đọc một cuốn sách hay, để lấy lại sự cân bằng trong tâm, đừng miễn cưỡng bản thân, mà hãy dành tặng bản thân một khoảng trống tĩnh lặng.

Nếu một người sống mà trong tâm không lo phiền, không chấp nhất vào điều gì nơi thế tục, biết đủ và tự hài lòng với cuộc sống hiện tại, thì hết thảy những thứ họ có được đều sẽ mang đến cho họ sự vui sướng, vui vẻ, an hòa trong tâm. Người như vậy ắt sẽ cảm nhận được sự ấm áp, bình yên nơi thế gian.


Ngày nay, rất nhiều người sử dụng quỹ thời gian của mình để giành giật và tranh đấu, luôn ở trong trạng thái căng thẳng và lo âu. Cuốn vào vòng xoáy của kim tiền và vật chất, nhiều người đã không còn biết đến cảm giác thong dong, điềm tĩnh và tự tại. Thật ra khi thực sự cảm thấy mệt mỏi, hãy bớt chút thời gian, rời xa nơi phố thị ồn ã, thưởng thức một ly trà, đọc một cuốn sách hay, để lấy lại sự cân bằng trong tâm, đừng miễn cưỡng bản thân, mà hãy dành tặng bản thân một khoảng trống tĩnh lặng.

Nếu một người sống mà trong tâm không lo phiền, không chấp nhất vào điều gì nơi thế tục, biết đủ và tự hài lòng với cuộc sống hiện tại, thì hết thảy những thứ họ có được đều sẽ mang đến cho họ sự vui sướng, vui vẻ, an hòa trong tâm. Người như vậy ắt sẽ cảm nhận được sự ấm áp, bình yên nơi thế gian.


9 cách đơn giản giúp loại bỏ nhanh cao răng tại nhà trong gian bếp của bạn

Cao răng là mảng bám đã được vôi hóa bởi hợp chất muối calcium phosphate trong nước bọt. Mảng bám cần tồn tại trong miệng khoảng 1 tuần để chuyển hóa thành cao răng. Cao răng không phải là một vấn đề đáng lo ngại, tuy nhiên nếu chủ quan để cao răng hình thành và tồn tại trong một thời gian dài thì có thể gay ra tình trạng mất răng và mùi hôi trong miệng. Mời các bạn cùng tham khảo những phương pháp đơn giản sau đây để loại bỏ các mảng bám trong răng nhé 

1. Baking soda và muối

Đây là cách loại bỏ cao răng đơn giản nhưng hiệu quả. Trộn 1 muỗng canh baking soda với một chút muối và phết lên bàn chải đánh đã có chút kem đánh răng rồi chà răng. Tuy nhiên, chỉ nên áp dụng 1 tuần 2 lần, nếu làm quá nhiều lần một tuần nó có thể dẫn đến tổn thương men răng.


2. Vỏ cam

Bạn có thể trực tiếp dùng vỏ cam (tốt nhất là vỏ cam còn tươi) chà xát răng trong 2-3 phút và sau đó súc miệng lại bằng nước ấm. Với cách làm này bạn có thể làm thường xuyên trong tuần.


3. Nước chanh

Nhúng bàn chải đánh răng vào nước cốt chanh tươi và nhẹ nhàng chà xát lên răng. Để yên trong một phút trước khi súc miệng. Với cách làm này bạn nên làm 3 lần một tuần.


4. Hạt mè

Lấy một thìa đầy hạt mè (hạt vừng) cho vào miệng và nhai kỹ. Bạn cần cố gắng nhai nhuyễn hạt mè và không nuốt. Sau đó, bạn dùng bàn chải đánh răng chà răng khi vẫn còn hạt mè trong miệng. Thực hiện cách này hai lần một tuần.


5. Hydrogen peroxide (nước oxy già) và nước súc miệng

Trộn 1 muỗng canh nước súc miệng sát trùng với 3 muỗng canh dung dịch 3% hydro peroxit. Súc miệng bằng hỗn hợp này trong vài phút và tráng bằng nước sạch để loại bỏ cao răng.


6. Dầu dừa

Ngậm 1-2 muỗng canh dầu dừa trong miệng khoảng 10 phút. Sau đó nhổ ra và súc miệng lại bằng nước ấm.

7. Dâu tây và cà chua

Nghiền nát dâu tây và cà chua, dùng hỗn hợp này bôi lên răng. Để yên trong 5 phút, sau đó súc miệng


8. Lô hội 

1 muỗng cà phê gel lô hội, 10 giọt tinh dầu chanh và 4 muỗng canh baking soda trong 1 cốc nước trộn thành hỗn hợp mịn. Dùng nó để đánh răng 1 lần mỗi ngày.


9. Đinh hương

Nghiền đinh hương, thêm một ít dầu ôliu và thoa hỗn hợp lên các khu vực có cao răng để yên trong khoảng 10 phút sau đó xúc miệng lại bằng nước ấm hoặc bạn có nhai trực tiếp đinh hương.

Thứ Bảy, 30 tháng 3, 2024

Phải làm gì khi bạn cảm thấy cô đơn?


Sadhguru xem xét dù đó là sự tức giận, niềm vui hay tình yêu, nếu chúng ta có thể giữ nó ổn định và tiếp tục thì nó có thể là một phương tiện để nhận ra phải làm gì khi bạn cảm thấy cô đơn

Câu hỏi: Khi tôi thật sự vui vẻ và trong sáng, bên trong có một sự hồ hởi; tôi như đang tan chảy. Nhưng mọi người xung quanh đang kéo tôi xuống, mặc dù tôi cố gắng không để họ làm vậy. Và nếu tôi kềm giữ cho riêng mình, tôi cảm thấy cô đơn. Tôi nên làm gì?

Sadhguru trả lời: Bạn càng cảm thấy cô đơn và chán nản thì càng cần có bạn đồng hành. Bạn càng trở nên vui vẻ và hồ hởi thì bạn càng ít cần có bạn đồng hành. Vì vậy, nếu bạn cảm thấy cô đơn khi ở một mình, điều đó có nghĩa là bạn rõ ràng đang ở cạnh một người bạn tồi! Nếu ở bên một người tốt, tại sao bạn lại cảm thấy cô đơn? Bạn sẽ cảm thấy tuyệt vời. Quan điểm của mọi người về sự hồ hởi là “Hãy nói chuyện, hãy nhảy múa, hãy nghe nhạc, hãy làm điều này, hãy làm điều kia!” Nhưng bạn chỉ có thể ngồi yên lặng và hoàn toàn hồ hởi. Nếu sự hồ hởi của bạn được tạo ra thì bạn cần có bạn đồng hành. Nếu bạn hồ hởi với bản chất riêng của mình, nếu cuộc sống đã trở nên hồ hởi thì hoạt động chỉ là hệ quả. Nếu cuộc sống của bạn không vui vẻ và bạn đang cố gắng cải thiện nó bằng hoạt động thì hoạt động chính là phương tiện.

Đây là sự khác biệt lớn. Hoặc là bạn khiêu vũ và đạt đến một trạng thái hồ hởi nào đó, hoặc bởi vì bạn hồ hởi và không thể kiềm chế được nên bạn khiêu vũ. Đây là hai điều khác nhau. Hoặc bởi vì bạn hạnh phúc nên bạn bật cười, hoặc có ai đó nói với bạn, “Mỗi buổi sáng nếu bạn cười và cười, một ngày nào đó bạn sẽ trở nên hạnh phúc”. Đây là hai cách khác nhau. Hãy nhìn mọi thứ xung quanh bạn; nói cho tôi biết, cuộc sống diễn ra theo cách nào?

Phải chăng vì có hoa mà cây và rễ mọc lên như chỗ dựa cho bông hoa? Không. Vì không thể kìm nén được sự hưng phấn trong thân cây nên nó đã nở hoa. Đây là cách cuộc sống nên diễn ra. Nếu bạn cố gắng sống theo cách khác, đó sẽ là một cuộc sống rất khó khăn.


Liên tục đặt mình vào thế giới như thể bạn đang vui vẻ, trong khi thực tế thì không, là cuộc sống khó khăn nhất trên thế giới. Khi bạn không hạnh phúc, để cho mọi người thấy rằng bạn đang hạnh phúc, bạn sẽ phải trả giá bằng mạng sống phi thường. Bạn có nhận thấy điều này không? Có một số người khi họ hạnh phúc thì họ hạnh phúc; khi họ không hạnh phúc, họ không hạnh phúc. Họ chỉ cho mọi người xem, cả thế giới đều biết hành động sống của họ. Một số người cố gắng giả vờ mọi lúc, nhưng phải mất rất nhiều năng lượng để duy trì được như vậy. Mọi người cuối cùng có những cục u và khối u trong cơ thể khi liên tục cố gắng thực hiện một hành động. Nếu bạn quyết tâm theo một cách nào đó, bạn sẽ làm điều đó với chính mình.

Ân huệ duy nhất dành cho con người là họ không bao giờ làm được việc gì một cách đều đặn. Niềm vui của họ lúc có lúc biến  đi, nỗi đau khổ của họ cũng thế. Nó không bao giờ được bật đầy đủ. Nếu bạn trở nên hoàn toàn đau khổ, bạn sẽ thấy hậu quả của nó. Nếu bạn trở nên hoàn toàn vui vẻ, bạn sẽ thấy hậu quả của nó. Nếu bạn trở nên hoàn toàn giận dữ, bạn sẽ thấy hậu quả của nó. Bạn không nhìn thấy hậu quả của bất cứ điều gì bởi vì bạn luôn kiềm giữ nó.

Mọi người hỏi tôi, “Sadhguru, tôi nên có thái độ và cảm xúc như thế nào?” Tôi nói, “Cái quái gì cũng được.” Muốn giận thì giận suốt 24 giờ không ngừng; bạn sẽ được chứng ngộ. Nếu bạn thích yêu, hãy yêu 24 giờ. Bạn sẽ được giác ngộ. Chỉ cần giữ nó và bạn sẽ đạt được một nhận thức nhất định. Đó là tất cả những gì mang theo.

Mọi thứ - mọi tế bào, mọi nguyên tử - trong sự tồn tại đều có thể là cánh cửa dẫn đến cõi bên kia nếu bạn kiên định với nó. Vấn đề là mọi người cứ thay đổi. Điều này đang xảy ra trên thế giới ngày nay hơn bao giờ hết. Mọi người cho rằng khoảng thời gian chú ý của họ rất ngắn là  một đức tính tốt. Nếu bạn tiếp tục thay đổi, sẽ không có gì xảy ra. Đi bất cứ nơi nào bạn muốn, nhưng đều đặn.


Thiên Lan biên dịch from what to do when you are lonely.

Thứ Sáu, 29 tháng 3, 2024

Sức mạnh của sự lạc quan – Chìa khóa cho sự trường thọ và sức khỏe


"Người ta nói rằng một người chỉ cần ba điều để thực sự hạnh phúc trên thế giới này: ai đó để yêu, việc gì đó để làm và điều gì đó để hy vọng." — Tom Bodett.


Cuộc sống đã khó, sống tích cực còn khó hơn. Có những người, dù mang trong mình những vết sẹo của cuộc sống khó khăn, vẫn tìm thấy điều gì đó để mong chờ mỗi ngày. Những tâm hồn kém kiên cường hơn có thể dễ mất hy vọng trước những thử thách nhỏ nhất. Khả năng chịu đựng của chúng ta có liên quan chặt chẽ đến tư duy của chúng ta. Những người tin tưởng rằng sự bình yên sẽ đến sau mỗi cơn bão sẽ chiến thắng và mạnh mẽ hơn. Ngược lại, những người có suy nghĩ tiêu cực lại có xu hướng chết đuối trong mưa. Lạc quan không chỉ thúc đẩy kết quả tích cực. Theo nghiên cứu, nó thậm chí có thể kéo dài tuổi thọ của chúng ta. Hãy cùng khám phá lý do và cách khai thác sức mạnh của sự lạc quan.

“Lạc quan là một sự lựa chọn được thực hành.” — Julia Cameron.

Mỗi buổi sáng, chúng ta phải lựa chọn suy nghĩ của mình. Nếu mọi thứ trong cuộc sống của chúng ta diễn ra suôn sẻ thì chúng ta dễ dàng nhìn thấy những điều tốt đẹp và mong đợi những điều tuyệt vời sẽ đến. Chính khi tâm trí chúng ta bối rối và trái tim chúng ta bất an thì sự lựa chọn trở nên khó khăn.

Khi chìm đắm trong lo lắng, tâm trí chúng ta nhanh chóng tập trung vào vấn đề thay vì nghĩ ra giải pháp. Phản ứng này xảy ra vì sợ một kết quả tiêu cực hoặc như một cơ chế phòng vệ khi lợi ích của chúng ta bị đe dọa. Tuy nhiên, tâm trí của một người lạc quan lại hoạt động khác:

-Ở đâu có vấn đề, người lạc quan sẽ tìm ra giải pháp.

-Nơi nào có thử thách, người lạc quan nhìn thấy cơ hội học hỏi.

-Nơi nào có xung đột, người lạc quan nhìn thấy sự phát triển cá nhân.

-Nơi nào có nỗi đau, người lạc quan nhìn thấy cơ hội để phát triển lòng khoan dung.

-Ở đâu có mất mát, người lạc quan nhìn thấy cơ hội để học cách buông bỏ.


Lạc quan là điều chúng ta có thể học được, nhưng cần phải thực hành thường xuyên để tạo thành thói quen. Mỗi khi có điều gì đó “tồi tệ” xuất hiện, hãy coi đó là cơ hội để thực hành sắp xếp lại. Nó có nghiêm trọng như tâm trí bạn nghĩ không? Nó sẽ kéo dài mãi mãi? Nó sẽ thay đổi bạn tốt hơn như thế nào?


Một câu tục ngữ cổ của Trung Quốc khuyến khích chúng ta giữ một quan điểm rộng hơn:


“Lùi lại một bước, bạn sẽ thấy biển trời bao la.” lảo Tử 


Nếu chúng ta chọn nhìn lên bầu trời trong xanh bao la thì cơn bão đương nhiên sẽ thoáng qua và tầm thường.


Hảy cẩn thận với sự bi quan bởi vì một khi những suy nghĩ tự buộc tội và sợ hãi xuất hiện, chúng sẽ làm suy yếu sự tự tin của chúng ta, khiến chúng ta cảm thấy yếu đuối hoặc bất lực.


Bạn có phải là người bi quan? Hãy để ý những dấu hiệu này:


-Trong những thời điểm không chắc chắn, bạn thường mong đợi điều tồi tệ nhất.

-Bạn tin rằng thành tựu của bạn là do may mắn.

-Khi có sự cố xảy ra, bạn nghĩ đó là lỗi của mình.

-Nếu điều gì đó diễn ra tốt đẹp, bạn chuẩn bị cho khoảng thời gian tốt đẹp sẽ kết thúc.

-Khi nghĩ về tương lai của mình, bạn không thấy mình mãn nguyện.

-Không giống như những suy nghĩ lạc quan thúc đẩy hành động, những suy nghĩ tiêu cực có thể ngăn cản hành động hoàn toàn.


Ví dụ, những người bi quan có thể không đi phỏng vấn xin việc vì họ tin rằng dù thế nào đi nữa thì họ cũng sẽ không nhận được việc làm; họ sẽ không đón nhận những thử thách mới vì cho rằng mình không đủ trình độ; họ sẽ không bắt đầu một sở thích mới vì họ cho rằng mình đã quá già; hoặc họ sẽ không bắt đầu tập thể dục vì cho rằng mình sẽ không kiên trì.


Mặt khác, những người lạc quan tin rằng mọi thứ đều có thể xảy ra, miễn là họ sẵn sàng nỗ lực. Họ không tập trung vào những gì có thể xảy ra sai sót mà tập trung vào khả năng - dù nhỏ - về những điều sẽ diễn ra đúng đắn.


Một quan điểm tích cực như vậy đòi hỏi chúng ta phải thoải mái với thất bại. Một khi chúng ta buông bỏ nỗi sợ mắc sai lầm, chúng ta sẽ trở nên tự tin hơn và sẵn sàng thử hầu hết mọi thứ.



“Tôi đã học cách sử dụng từ không thể một cách thận trọng nhất.” — Werner von Braun.


Một khi những suy nghĩ tự buộc tội và sợ hãi xuất hiện, chúng sẽ làm suy yếu sự tự tin của chúng ta, khiến chúng ta cảm thấy yếu đuối hoặc bất lực.


Lạc quan để có một cuộc sống khỏe mạnh, lâu dài hơn.Khả năng một sự thay đổi đơn giản trong quan điểm có thể cải thiện sức khỏe và kéo dài tuổi thọ của chúng ta đã truyền cảm hứng cho các nhà nghiên cứu khám phá sức mạnh của sự lạc quan.


Lạc quan và huyết áp có liên quan với nhau. Một nghiên cứu của Mỹ năm 2020 được công bố trên Thư viện Y khoa Quốc gia cho thấy quan điểm tích cực có liên quan đến việc giảm nguy cơ tăng huyết áp. Nhóm nghiên cứu đã đánh giá sự lạc quan ở 103.486 binh sĩ tại ngũ của Quân đội Hoa Kỳ (tuổi trung bình 28,96 tuổi) có mức huyết áp bình thường. Trong 3,5 năm tiếp theo, những người lạc quan cho thấy nguy cơ mắc bệnh tăng huyết áp giảm 22%.


Một bài nghiên cứu khác được xuất bản 5 năm trước trên cùng tạp chí đã đánh giá mối liên hệ giữa sự bi quan và tỷ lệ mắc bệnh tim mạch vành (CHD) – một bệnh tim thường do huyết áp cao gây ra. Trong khoảng thời gian 10 năm, đàn ông và phụ nữ Phần Lan ở độ tuổi trung niên trở lên đã được đánh giá, cho thấy những người đàn ông được xếp vào nhóm bi quan nhất có nguy cơ mắc CHD cao gấp 4 lần.


Một nghiên cứu năm 2012 đã đánh giá mối quan hệ giữa sự lạc quan và khả năng hồi phục của những bệnh nhân đã trải qua phẫu thuật ghép bắc cầu động mạch vành (CABG) và đang bị trầm cảm sau phẫu thuật. Sau đánh giá kéo dài 8 tháng, những bệnh nhân lạc quan cho thấy khả năng phải nhập viện lại thấp hơn so với những người kém tích cực hơn, cũng như khả năng đáp ứng cao hơn với điều trị trầm cảm.


Nghiên cứu đầu tiên của Mỹ đánh giá mối liên hệ giữa sự lạc quan và tuổi thọ được thực hiện vào những năm 1960 với 839 bệnh nhân. Trong khoảng thời gian 30 năm, các nhà nghiên cứu nhận thấy rằng cứ mỗi 10 điểm bi quan tăng lên thì tỷ lệ tử vong lại tăng 19%.


Một bài báo nghiên cứu khác được xuất bản vào năm 2019 đã khám phá tác động của sự lạc quan đến tuổi thọ của con người. Nó phát hiện ra rằng những phụ nữ lạc quan nhất – top 25% – sống lâu hơn khoảng 14,9% so với những người cùng lứa tuổi. Đối với nam giới, những người tích cực nhất có tuổi thọ dài hơn 10,9% so với những người kém vui vẻ hơn.


Những cách thiết thực để trở nên lạc quan


1. Thấy cái tốt dù lớn hay nhỏ


“Tôi không nghĩ đến tất cả những đau khổ mà nghĩ đến vẻ đẹp vẫn còn đó.” Anne Frank.


Lạc quan là một thói quen được xây dựng trên lòng biết ơn. Nó đòi hỏi phải rèn luyện tâm trí để nhìn thấy điều tốt, ngay cả khi điều xấu dường như tự áp đặt. Hướng mắt về mặt tươi sáng của mọi việc sẽ giúp chúng ta luôn hy vọng và háo hức sống.


2. Nhắc nhở bản thân rằng mọi giông bão đều qua đi

“Nhưng tôi biết, bằng cách nào đó, chỉ khi trời đủ tối bạn mới có thể nhìn thấy các vì sao.” Martin Luther King, Jr.


Là người lạc quan mà bạn đang phấn đấu trở thành, hãy có chủ ý trong cách bạn nhìn nhận từng thất bại. Nó có giúp bạn trở nên kiên cường hơn không? Nó sẽ dẫn bạn đến học một cái gì đó mới? Nó có truyền cảm hứng cho bạn để trở nên đồng cảm hơn với người khác không?


Khi bạn bắt đầu coi những khó khăn là những điều may mắn được ngụy trang, bạn sẽ cảm thấy sẵn sàng giải quyết mọi việc.


4. Tìm cảm hứng

“Hầu hết những điều quan trọng trên thế giới đều được thực hiện bởi những người không ngừng cố gắng dù dường như chẳng còn chút hy vọng nào”. Dale Carnegie.


Những người lạc quan ngoan cường có thể được tìm thấy ở hầu hết mọi nơi. Nếu kiên nhẫn và lắng nghe, chúng ta có thể cảm động trước câu chuyện về những con người phi thường lặng lẽ chịu đựng cuộc sống với nụ cười. Vì nguồn cảm hứng là vấn đề cá nhân nên tôi sẽ chia sẻ ở đây hai nguồn cảm hứng chính của tôi, Vinghua Chen.


Báo của chúng tôi đã đưa tin về câu chuyện của Yinghua vào năm ngoái. Với tư cách là một nhà báo, tôi đã có cơ hội tiếp xúc cá nhân với cô ấy, lắng nghe những tâm sự của cô ấy và cách cô ấy nhìn nhận cuộc sống.


Theo hồ sơ của cảnh sát Trung Quốc, Yinghua đã bị cầm tù ba lần trong thời gian ở Trung Quốc vì đức tin vào Pháp Luân Công. Trải nghiệm tra tấn và bức thực của cô trong các nhà tù ở Trung Quốc đã được các phương tiện truyền thông khác ghi lại.


Sự thật ít được biết đến là cô đã bị tước đi cơ hội được nhìn thấy con trai mình lớn lên - cậu bé mới hai tuổi rưỡi khi Yinghua trốn khỏi nhà để thoát khỏi sự đàn áp, và 15 tuổi khi họ đoàn tụ ở Canada - và cô buộc phải làm vậy. sống ly thân với chồng - hiện đang ở tù và được cho là vô tội - kể từ năm 2008.


Tuy nhiên, đề cập đến sự giúp đỡ của chính phủ Canada trong việc giải cứu cô khỏi Trung Quốc, cô mỉm cười nói: “Điều khiến tôi cảm động nhất là sức mạnh từ những việc làm tốt đẹp của người dân thường. Tôi yêu Canada và người dân Canada!”


Hiện nay, cô sống ở Calgary cùng con trai, hiện 19 tuổi và cha mẹ già. Cô vẫn liên lạc với chồng hàng tuần với niềm tin rằng họ sẽ sớm đoàn tụ.

Cha mẹ là anh hùng đối với con cái. Trong trường hợp của tôi, Chúa đã ban cho tôi một người cha dũng cảm và lạc quan., Giovanni Avendano.

Anh ấy từ vị trí kỹ sư của công ty riêng ở Colombia, đến làm công việc dọn dẹp ở Canada. Sự thay đổi về văn hóa, thời tiết lạnh giá và rào cản ngôn ngữ khiến mọi việc trở nên khó khăn hơn nhiều. Sau bảy năm gọi Canada là quê hương của mình, anh ấy đã chăm chỉ học tiếng Anh mỗi ngày. Mặc dù anh ấy thường phàn nàn về việc mình bao nhiêu tuổi để học một ngôn ngữ mới, hoặc công việc giàn giáo hiện tại đòi hỏi thể chất như thế nào, nhưng anh ấy luôn sẵn sàng nói đùa về những thử thách của mình.

“Mặt trời mọc mỗi ngày,” anh ấy nói với tôi, rồi nhắc nhở tôi rằng cuộc sống trở nên khó khăn như thế nào theo tuổi tác. Nhưng nếu tôi có thể thừa hưởng sức mạnh và niềm vui của anh ấy, tôi có thể nói rằng, tôi đã sẵn sàng già đi!

Tác giả Carolina Avendano

Carolina là một nhà văn và nhà báo sống ở Canada, thích học hỏi và chia sẻ thông tin về cách sống một cuộc sống có ý nghĩa. Cô đam mê văn hóa truyền thống, đồ thủ công, sự kết nối giữa con người với thiên nhiên và nhân quyền.


Thiên Lan biên dịch from the vision times

Những câu nói để đời của thiên tài CHARLIE CHAPLIN

 * Tôi thích đi bộ trong mưa, vì không ai có thể nhìn thấy nước mắt của tôi.


* Không có gì vĩnh viễn trên thế giới này - thậm chí cả những rắc rối của chúng ta.


* Một ngày không có tiếng cười là một ngày lãng phí.


* Để thật sự cười, anh có thể lấy nỗi đau của mình ra và chơi đùa với nó!


* Giúp bạn bè khi họ cần, thật dễ dàng, nhưng dành cho họ thời gian không phải lúc nào cũng thuận lợi.


* Bản chất thực sự của một người đàn ông xuất hiện khi anh ta say xỉn.


* Chúng ta ai cũng muốn giúp người khác. Con người là thế. Chúng ta muốn sống hạnh phúc bên nhau chứ không phải sự khổ sở của nhau.


* Tuyệt vọng là ma túy. Nó ru ngủ trí óc ta vào sự dửng dưng.


* Cuộc đời là một bi kịch khi nhìn gần, nhưng là hài kịch khi nhìn từ xa.


* Tôi nghĩ một trong những điều trớ trêu của cuộc đời là gây ra sai lầm vào đúng lúc.


* Con người là thiên tài khi đứng một mình. Nhưng những người trong đám đông thì tạo ra con quái vật không đầu, quá ngốc nghếch và tàn bạo, sẵn sàng lao vào bất cứ nơi nào khi bị thúc giục.


* Chúng ta suy nghĩ quá nhiều và cảm nhận quá ít.


* Chiếc gương là người bạn thân thiết nhất của tôi vì nó không bao giờ cười khi tôi khóc.


* Chúng ta cần sự dịu dàng, ân cần tử tế hơn là trí thông minh.


* Tôi không có nhiều kiên nhẫn với một thứ đẹp đẽ mà phải được giải thích thì mới hiểu được. Nếu nó cần thêm diễn giải từ một người nào đó không phải là người tạo ra nó, thì tôi tự đặt câu hỏi liệu nó có hoàn thành mục đích của nó hay không?


* Anh muốn ý nghĩa làm gì chứ? Cuộc đời là khát khao, không phải một ý nghĩa.


* Sự căm thù của con người sẽ trôi qua, những kẻ độc tài rồi sẽ chết, và sức mạnh chúng cướp của nhân dân sẽ trở về với nhân dân, miễn là còn người chết, tự do sẽ không bao giờ chết.


* Kẻ độc tài giải phóng chính mình, nhưng lại nô dịch hóa nhân dân.


* Tôi không tin công chúng biết mình muốn gì; đó là kết luận tôi thu được từ sự nghiệp của chính tôi.


* Tại sao thi ca lại phải khiến người ta hiểu được?


* Điều đáng buồn nhất tôi tưởng tượng ra được là quen với sự xa hoa.


* Tôi luôn có nhiều trở ngại trong cuộc đời. Nhưng đôi môi tôi không biết điều đó. Chúng luôn mỉm cười.

Thứ Năm, 28 tháng 3, 2024

Không đỗ lỗi cho người khác


Trong hành trình phát triển bản thân, việc nhìn nhận và chấp nhận lỗi lầm của chính mình là một bước quan trọng. Điều này không chỉ giúp chúng ta trở nên khiêm tốn và tự giác hơn, mà còn mở ra cơ hội để cải thiện và phát triển. Khi chúng ta từ bỏ thói quen đổ lỗi cho người khác, chúng ta bắt đầu nhận ra rằng mỗi vấn đề đều có cơ hội để học hỏi và trưởng thành. Việc này đòi hỏi sự can đảm để đối mặt với sự thật và lòng dũng cảm để thay đổi. Cuộc sống trở nên ý nghĩa hơn khi chúng ta biết ơn những khó khăn, vì chúng chính là những bài học quý giá giúp chúng ta tiến bộ mỗi ngày. Đó là lý do tại sao việc nhìn lại bản thân, thay vì chỉ trích người khác, là một phần không thể thiếu trong quá trình hoàn thiện mình.

Tự xét lại bản thân là một quá trình liên tục và đòi hỏi sự chân thành. Một số phương pháp có thể bao gồm việc thiền định, viết nhật ký, và tự phản hồi. Thiền định giúp ta tĩnh tâm và quan sát suy nghĩ một cách khách quan. Viết nhật ký hàng ngày về những suy nghĩ và cảm xúc có thể giúp ta nhận diện mô hình hành vi và suy nghĩ. Tự phản hồi, hay tự đặt câu hỏi cho bản thân sau mỗi sự kiện hoặc cuộc trò chuyện, giúp ta nhận ra những điểm mạnh và điểm yếu của mình. Ngoài ra, việc xin phản hồi từ người khác cũng là một cách hữu ích để nhìn nhận bản thân từ góc độ khác. Cuối cùng, việc đặt mục tiêu cá nhân và đánh giá tiến trình đạt được mục tiêu đó cũng giúp ta nhận thức rõ hơn về sự phát triển của bản thân. Quan trọng nhất là phải giữ tâm trí cởi mở và sẵn sàng thay đổi dựa trên những gì ta học được từ quá trình tự xét lại này.

Trong cuốn sách của “Mạnh Tử” có đoạn viết: “Hành hữu bất đắc, phản cầu chư kỷ”, ý nói là khi gặp thất bại, việc đầu tiên cần làm là quay lại tìm nguyên nhân thiếu sót ở mình. 

Không phải chỉ khi gặp nghịch cảnh chúng ta mới cần xem xét bản thân mà ngay trong cuộc sống hằng ngày chúng ta cũng cần nhìn lại chính mình. Xem xét lại mình là con đường hoàn thiện mà mỗi người đều phải đi qua. Biết nhìn lại bản thân và sửa đổi là chúng ta đã có thể làm chủ được tâm hồn và số phận của chính mình. 

Nhà văn người Mỹ Franklin rất giỏi trong việc tìm ra vấn đề ở bản thân, ngay từ khi còn trẻ, ông đã liệt kê ra 13 khuyết điểm mà ông đang mắc phải như: Lãng phí thời gian, lo lắng về những điều nhỏ nhặt, tranh cãi với người khác,…

Để khắc phục những thiếu sót này, ông đã ghi một cuốn nhật ký đức hạnh, trong chỉ ra 13 khuyết điểm cần hoàn thiện. Mỗi ngày ông đều ghi chép lại hành động của mình để đối chiếu với những điều ghi trong nhật ký.

Trên đời không có ai là hoàn hảo, những người hay được người khác khen ngợi không phải bởi họ không bao giờ mắc lỗi, mà bởi vì đó là những người biết nhìn lại, sửa đổi lỗi lầm của chính mình. 

Những người không biết nhìn lại mình thường sẽ tìm nhiều lý do để bào chữa cho bản thân, thời gian lâu, họ sẽ bị thất bại mà không biết nguyên nhân dẫn đến thất bại là ở đâu. 

Thứ Tư, 27 tháng 3, 2024

Im lặng là vàng

 Im lặng được xem như một loài hoa, “hoa ngôn ngữ”, không tỏa hương nhưng mang lại một vẻ đẹp thanh cao và thuần khiết. Loài hoa này sẽ toát hết cái vẻ quyền uy của nó nếu bạn biết cách khai mở chúng. Nếu cuộc sống này tràn ngập ánh nắng thì những khoảng lặng sẽ là những cơn mưa. Cho nên ý thức được sức mạnh của “Im lặng” sẽ giúp chúng ta hiểu mình, hiểu người hơn và dễ cảm thông hơn. Từ đó bạn chỉ đợi chờ gặt hái kết quả của sự thành công trên thương trường nhưng hơn nữa đó là sự tỉnh lặng mà chỉ có các bậc thiền sư mới có được.

Im lặng là sự vắng mặt của những lời nói thường ngày, những âm thanh có thể làm ta trở nên vui tươi hơn, hoặc sẽ làm tâm trạng chúng ta chùng xuống bất cứ lý do gì. Lắm lúc chúng ta nhận ra rằng người đối diện hay đang giao tiếp có vẻ im lặng dường như phớt lờ đi mọi ý tưởng hiện đang trình bày. Tuy nhiên im lặng không có nghĩa là dửng dưng với mọi thứ xung quanh mà im lặng để chiêm nghiệm rõ hơn về nguyên nhân-hậu quả của vấn đề, quan trọng hơn đó cũng là cách để thể hiện cảm xúc thấu hiểu hơn về vấn đề đang hiện là.

Hơn nữa sự thấu hiểu của ta phát xuất từ những khoảng lặng sâu kín tận tâm hồn, cho nên im lặng không có nghĩa là khinh thường hay miệt thị ai đó với thái độ bất cần, mà là cho chúng ta cơ hội để hiểu nhau hơn. Đôi khi im lặng còn mạnh mẽ hơn rất nhiều so với những lời nói hoa mỹ có tính sáo rỗng.

Đôi khi nói không phải là cách để giải quyết tốt nhất cho sự việc đang xảy ra. Xã hội hiện nay là một thực trạng con người có thể mất mạng vì một lời nói vô tình hay cố ý. Giữ im lặng là sức mạnh có thể ngang bằng với lời nói, giống như một cái ôm thắm thiết có giá trị hơn lời nói: “Chia buồn cho sự mất mác của bạn.” Ở tại thời điểm đó, bạn tốt nhất nên chọn im lặng khi họ chia sẽ những câu chuyện có ý nghĩa, hảy để họ khóc thoải mái cho tâm trạng bớt đau khổ. Hãy để cho họ cảm thấy được những cử chỉ gật đầu im lặng và những ánh mắt đồng cảm ,chia sẻ.

"Im lặng là vàng" là một câu tục ngữ Việt Nam, nói lên giá trị của sự im lặng trong giao tiếp và tương tác xã hội. Câu này nhấn mạnh rằng đôi khi không nói gì còn hơn là nói ra những lời có thể gây hiểu lầm hoặc tổn thương. Trong văn hóa Việt, sự im lặng được coi là một dạng của trí tuệ và sự tự chủ, nơi mà không gian không lời nói cung cấp cơ hội để suy ngẫm và hiểu sâu sắc hơn về môi trường xung quanh và mối quan hệ giữa con người với nhau. Điều này cũng phản ánh quan điểm rằng sự im lặng có thể truyền đạt nhiều hơn là lời nói, đặc biệt trong những tình huống nhạy cảm, nơi mà lời nói có thể không đủ để diễn đạt hết ý nghĩa hoặc cảm xúc. Thực hành sự im lặng cũng là một phần của nhiều truyền thống tâm linh và thiền định, nơi mà nó được coi là con đường dẫn đến sự tỉnh thức và giác ngộ.


Thứ Ba, 26 tháng 3, 2024

Những sợi dây ràng buộc chúng ta

 Khi còn một sự đam mê, trông chờ thì bạn chưa có được tự do. Đức Thế Tôn là một người tự do. Khi ngài giác ngộ ngài đã chỉ cho chúng ta những sợi dây ràng buộc mà chúng ta chưa tháo gỡ được. Đức Thế Tôn gọi tên những sợi day đó là thập triền, thập sử và thập kết.

Sợi dây đầu tiên là đam mê, trông ngóng, chờ đợi.

Sợi dây thứ hai là hận thù, hờn giận.

Sợi dây thứ ba là tri giác sai lầm về mình và người.

Sợi dây thứ tư là mặc cảm.

Sợi dây thứ năm là nghi ngờ.

Sợi dây thứ sáu là nghĩ rằng hình hài này là mình.

Sợi dây thứ bảy là kẹt vào những cặp đối lập có – không, sinh – diệt

Sợi dây thứ tám là nhận thức đảo ngược, tà kiến.

Sợi dây thứ chín là kẹt vào những nhận thức, tri giác của mình và cho đó là đúng.

Sợi dây thứ mười là kẹt vào hình thức nghi lễ.


Nhìn những sợi dây ràng buộc này chúng ta sẽ phải quán chiếu xem chúng ta có thể tháo gỡ được những sợi dây nào. Chúng ta phải nhìn lại mình và tự mình tháo gỡ từng sợi một.Trong giáo lý của Đức Thế Tôn, sự giác ngộ không chỉ là một trạng thái tâm linh mà còn là một quá trình giải thoát khỏi những ràng buộc tâm lý. Những sợi dây ràng buộc này đại diện cho các loại tư duy và thái độ tiêu cực mà con người thường mắc phải. Đam mê, hận thù, và sự hiểu lầm về bản thân và người khác là những ví dụ điển hình của những ràng buộc này. Đức Thế Tôn khuyến khích mỗi người tự quán chiếu và nhận ra những ràng buộc này trong cuộc sống của mình, để từ đó có thể từng bước tháo gỡ chúng và tiến gần hơn đến sự tự do thực sự. Đây là một hành trình cá nhân đầy ý nghĩa, đòi hỏi sự kiên nhẫn, hiểu biết và lòng từ bi đối với chính mình và người khác.


Phỏng theo lời pháp thoại sư ông Làng Mai

Câu chuyện sau do một nhà tỷ phú kể lại:

 “Nhiều năm về trước, có một cậu bé mồ côi tên Jim, 12 tuổi, gầy gò. Jim sống lang thang, là đầu mối của mọi trò cười và trêu chọc của mọi người sống trong thị trấn. Không ai đối xử tử tế với Jim. Những nghi ngờ của mọi vụ ăn cắp hay rắc rối đều có tên Jim đầu tiên. Cậu chỉ nhận được những lời nói cay độc, nghi ngờ. Kết quả là Jim luôn lẩn tránh những người xung quanh. Cậu càng lẩn tránh, người ta càng nghi ngờ cậu.


Tài sản duy nhất của Jim là chú chó Tige, cũng luôn khép nép và lẩn tránh mọi người như chủ nó. Jim không đối xử thô lỗ với Tige nhưng cậu cũng luôn dùng thứ ngôn ngữ cay độc mà mọi người dùng với cậu. Phần vì cậu đã quen với những ngôn ngữ đó, phần vì để trút đi mọi nỗi uất ức.

Một hôm, Jim thấy cô gái phía trước làm rơi một gói nhỏ. Cô cúi xuống nhặt thì một gói khác lại rơi khỏi tay. Jim chạy đến, nhặt hai cái gói lên đưa trả cô gái.

– Cảm ơn cậu bé, cậu thật tốt – Cô gái cười và xoa đầu Jim.

Jim hoàn toàn sốc. Đó là những lời nói tử tế đầu tiên cậu nghe thấy trong suốt 12 năm. Jim nhìn theo cô gái cho đến khi cô đi khuất.

… Jim huýt sáo gọi Tiger, con chó ve vẩy đuôi chạy tới bên. Cả chủ và chó đi vào rừng. Jim ngồi xuống cạnh bờ suối và trong đầu cứ vang lên: “Cảm ơn cậu bé, cậu thật tốt!”… Jim cười một mình. Rồi cậu gọi: “Đến đây Tige!”. Tiger chạy lại ngay, Jim xoa đầu nó và nói: “Cảm ơn mày! Mày thật là tốt!”.

Tiger rất phấn kích và ngạc nhiên. Tai nó vểnh lên, mắt hướng về phía Jim chăm chú, đuôi vẩy lia lịa. “Đến con chó cũng thích nghe nói dịu dàng!” – Jim nghĩ và lôi trong túi ra một mảnh gương vỡ. Cậu bé thấy một khuôn mặt lấm lem. Jim rửa mặt thật cẩn thận. Sau đó, Jim lại nhìn vào gương. Cậu bé ngạc nhiên. Lần đầu tiên, cậu nhìn lên cao thay vì chỉ cúi mặt như mọi khi. Một cảm giác, cũng là lần đầu tiên cậu cảm thấy: cảm giác tự trọng.

Từ khoảnh khắc đó, cuộc đời Jim hoàn toàn thay đổi bởi quyết tâm để “xứng đáng với những lời nói dịu dàng”.

Ngưng một lát, nhà tỷ phú tiếp tục nói: “Thưa các bạn, tôi chính là cậu bé đó. Thị trấn nhỏ mà tôi vừa kể đến chính là thành phố này 40 năm về trước. Cái cây ở đằng kia mà quý vị có thể thấy chính là nơi một người phụ nữ đã gieo hạt giống đầu tiên của lòng nhân hậu xuống cuộc đời tôi. Mong sao ai cũng có thể làm được như thế”.

Adlai Albert Esteb

Trái tim là một nhiệm màu của sự sống

 

Trái tim không chỉ là một cơ quan đơn thuần trong cơ thể chúng ta, mà còn là biểu tượng của sự sống và tình yêu. Nó làm việc không mệt mỏi, bơm máu đến mọi ngóc ngách của cơ thể, nuôi dưỡng từng tế bào và duy trì sự sống. Trái tim cũng là nơi chứa đựng những cảm xúc sâu kín nhất, từ niềm vui sướng đến nỗi buồn thăm thẳm, từ tình yêu tha thiết đến nỗi đau tận cùng. Nó phản ánh trạng thái tinh thần của chúng ta, đập nhanh hơn khi chúng ta hồi hộp hay đập chậm lại trong những khoảnh khắc yên bình.

Trong thực tế, trái tim còn có một vai trò quan trọng trong việc đưa ra quyết định. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng trái tim có khả năng gửi tín hiệu đến não, giúp chúng ta phản ứng với môi trường xung quanh một cách nhanh chóng và hiệu quả. Điều này cho thấy rằng trái tim không chỉ là một cơ quan cơ học, mà còn là một phần không thể thiếu của hệ thống cảm xúc và nhận thức của chúng ta.

Chúng ta thường không nhận ra giá trị của trái tim cho đến khi gặp phải vấn đề sức khỏe liên quan đến nó. Bệnh tim là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây tử vong trên toàn cầu, và việc chăm sóc trái tim không chỉ là trách nhiệm của mỗi cá nhân mà còn là một phần của trách nhiệm cộng đồng. Chúng ta cần phải nhận thức được tầm quan trọng của việc duy trì một lối sống lành mạnh, bao gồm việc ăn uống cân đối, tập thể dục đều đặn, và tránh xa các thói quen xấu như hút thuốc lá và lạm dụng rượu.

Cuối cùng, trái tim cũng là biểu tượng của sự kết nối và sự chia sẻ. Khi chúng ta chăm sóc trái tim của mình, chúng ta không chỉ bảo vệ sức khỏe cá nhân mà còn góp phần vào sức khỏe của cộng đồng. Mỗi nhịp đập của trái tim không chỉ là một bước tiến trong hành trình của cuộc sống mà còn là một lời nhắc nhở về sự kết nối giữa chúng ta với nhau và với thế giới xung quanh.

Những mầu nhiệm, những phép lạ ấy nhiều khi chúng ta quên mất, chúng ta hờn giận, chúng ta ganh ghét tại vì chúng ta không biết rằng trong ta có những mầu nhiệm tuyệt vời của sự sống. Mỗi khi chúng ta có chánh niệm về trái tim thì chúng ta biết rằng trái tim ta cũng đang đập một cách bình thường. Có một trái tim bình thường là một điều hết sức mầu nhiệm.Hãy trân trọng trái tim của mình và của những người xung quanh, vì nó thực sự là một phép màu của sự sống.

Trích theo pháp thoại sư ông làng Mai


Thiên lan sưu tầm

Thứ Hai, 25 tháng 3, 2024

ĐIỀU KIỆN ĐỂ CÓ MỘT TÁI SINH AN LÀNH


Chúng ta ai cũng mong muốn có được một tái sinh an lành. Vì thế chúng ta phải chuẩn bị vấn đề này. Bạn cần nắm rõ những điều kiện này như một kim chỉ nam của hộ niệm và dồn hết tâm sức để giúp đỡ ngay bản thân chúng ta và người thân sắp chết bằng cách tạo hoàn cảnh thuận lợi nhất có thể, hạn chế tối đa những nhân duyên tiêu cực có thể dẫn tới đọa lạc.

Thứ nhất, quan trọng là khi còn sống, người đó không được tích lũy nhiều ác nghiệp, đặc biệt là ác trọng nghiệp. 

Thứ hai, người sắp mất cần hình dung được rõ ràng cảnh giới mà họ tới và biết được chuyện gì sẽ xảy ra với họ.

Thứ ba là hoàn cảnh tốt lành; người chết cần ra đi trong điều kiện thuận lợi, an ổn.

Sự chuẩn bị cho điều kiện an lành

1. Không nên để người hấp hối nằm trong bệnh viện lúc lâm chung

Trước hết, khi thấy người bệnh ốm nặng không thể qua được, chúng ta không nên để họ trong bệnh viện mà nên trao đổi với y bác sĩ, lựa lấy thời điểm phù hợp để đưa về nhà tạo một không gian an bình và những chuẩn bị cần thiết. Việc phải chết trong bệnh viện tiềm ẩn những hiểm nguy bất tường cho sự giải thoát tâm linh. Đặc biệt, đối với người bị bệnh, nên tránh cho họ không phải chịu đựng nhiều mũi tiêm, ống dẫn trong bệnh viện vì chúng làm mở những huyệt đạo trong khi lẽ ra những huyệt đạo này phải được đóng lại lúc chết. Khoa học hiện đại nói chung vẫn chưa tin vào những điều sẽ xảy ra với tâm thức, mà chỉ nghiên cứu phạm trù thân thể vật lý nên các y bác sĩ vẫn thường xuyên can thiệp như vậy. Mặc dù động cơ tốt đẹp của họ là muốn giúp người bệnh hút các độc tố trong cơ thể ra, rồi thay thế bằng các loại chất dịch, hóa chất và khí để duy trì chỉ số sinh tồn, nỗ lực phục hồi sự sống, nhưng đối với trường hợp người bệnh ốm nặng không thể qua được thì điều này sẽ là không khả thi. Hành động can thiệp y học này có thể gây trở ngại lớn lao đối với người sắp chết. Hơn nữa, sự tiêm chích, phẫu thuật hay can thiệp trên cơ thể người chết lúc lâm chung còn dễ khiến cho họ khởi tâm sân hận, tạo thành Cận tử nghiệp xấu khiến người chết nhanh chóng đọa lạc.

Trường hợp tiến trình hấp hối diễn ra quá nhanh, hoặc khoảng cách địa lý không cho phép di chuyển người bệnh về nhà, chúng ta cần khéo léo trao đổi với y bác sĩ để xin một phòng riêng trong bệnh viện, di chuyển người hấp hối đến khu vực này và thực hành hộ niệm. Nếu điều này vẫn không khả thi, hãy trao đổi với bác sĩ để xin kéo dài thời gian chuyển người chết ra khỏi phòng. Hãy chia sẻ tâm nguyện này để có sự thông cảm của y bác sĩ và các bệnh nhân cùng phòng khác.

2. Nên tạo cho người chết một không gian tâm linh an lành

Tiếp đến, hãy tạo dựng một không gian tâm linh an lành, tĩnh tại bằng cách kiến lập bàn thờ Phật trong phòng người bệnh, giúp người chết được nương tựa và thấy bình an hơn. Tốt nhất là sắp đặt ban thờ sao cho người sắp chết có thể nhìn thấy từ giường nằm những bức tượng Phật, tranh Thangka Bản tôn để tâm thức có thể kết nối, được che chở hộ trì bởi tình yêu thương của chư Phật Bồ tát. Xung quanh nên tránh tiếng ồn, những câu chuyện phiếm và những sự động niệm khác khiến người chết không thể siêu thoát. Thay vào đó, lúc này hãy bật băng đĩa về nội dung khai thị cho người chết, hoặc cùng nhau tĩnh tâm trì tụng chân ngôn, niệm Phật A Di Đà, Quán Thế Âm,... để hộ niệm cho người chết. Trước khi trì tụng, hãy đọc lời khai thị giải thích cho người sắp chết công năng của Chân ngôn trong việc chữa lành và bảo hộ tâm thức.

3. Sự chuẩn bị về thân: Hạn chế những tác động về thân

Người sắp chết cần có được những điều kiện bình an một cách tương đối về thân. Điều này có nghĩa là, thân thể của họ không phải chịu những tác động, kích thích từ bên ngoài như tiêm chích, phẫu thuật cắt bỏ các bộ phận cơ thể đã nói ở trên. Những tác động đó khiến thần thức thoát ra theo những đường dẫn mở ra do tiêm chích phẫu thuật,... dẫn tới sự đọa lạc trong những cảnh giới đau khổ. Bị di chuyển quá nhiều hay các động niệm khác cũng khiến họ đau đớn và phát khởi tâm sân hận. Người sắp chết cần được yên ổn về thân và tuyệt đối tránh những động chạm không cần thiết vào thân trừ phi đó là sự tác động có chủ đích hộ niệm của bậc Thượng sư giác ngộ.

4. Sự chuẩn bị về tâm


Chuẩn bị những điều kiện ngoại duyên thuận lợi cho người sắp chết là vô cùng quan trọng, nhưng quan trọng và ý nghĩa hơn cả là sự chuẩn bị về mặt tâm linh. Vì tâm giữ vai trò chi phối và quyết định nên nếu người chết có được sự chuẩn bị vững vàng về tâm linh thì đó sẽ là một thuận lợi rất lớn cho cái chết tự tại và tái sinh an lành.


Kinh điển dạy rằng, người nào đến lúc lâm chung, chỉ cần nhất tâm niệm danh hiệu Phật ba lần, người đó cũng có thể được vãng sinh Tịnh độ. Thậm chí, nếu được nghe dù chỉ một danh hiệu Phật mà phát khởi tín tâm cũng có thể được rất nhiều lợi ích như thoát khỏi sự chi phối của nhiều nghiệp xấu ác, sinh về những cảnh giới tốt đẹp. Đó là vai trò vô cùng quan trọng của Cận tử nghiệp .

Sự chuẩn bị về tâm bao gồm nhiều khía cạnh:

Khéo léo nhìn thẳng vào cái chết

Khi lâm trọng bệnh, tuy chưa cận kề cái chết nhưng người bệnh chẳng khác gì đã nhận một bản án tử hình và việc ra đi chỉ là vấn đề sớm hay muộn. Khi đó, người bệnh có thể bắt đầu nhận thức những gì mình sở hữu sẽ không còn ý nghĩa. Mọi thứ, kể cả tiền bạc, người thân, thuốc men, đều trở nên vô ích, không thể tiếp tục mang lại cho họ cuộc sống, hạnh phúc, sự an ổn, cũng như không thể mang theo sang thế giới bên kia.

Người bệnh lúc này cảm thấy vô cùng khủng hoảng, bế tắc. Nỗi đau về thể xác không có ý nghĩa gì so với nỗi đau đớn tinh thần mà họ phải chịu đựng. Lúc này, sự hiện diện an ủi, khai thị của những người thân và người phát tâm hộ niệm là vô cùng cần thiết. Bạn có thể phân tích cho họ về bản chất và cơ hội của cái chết, về những gì họ cần nhận thức và chuẩn bị trong tiến trình này, từ đó giúp họ chủ động đối mặt với cái chết và sử dụng một cách hiệu quả nhất thời gian còn lại của cuộc sống làm hành trang cho giai đoạn trung gian tiếp theo. Nếu người bệnh có những uẩn khúc hay oán hận điều gì trong tâm, nên khuyên họ giải toả, đừng chấp giữ thì mới có thể giải thoát, nếu không chắc chắn đọa lạc thành cô hồn khó thể siêu thoát. Nên nhắc lại những công hạnh thiện lành họ đã tạo trong đời sống vừa qua để họ vững niềm tin và có sự thanh thản trước cái chết. Nếu người sắp chết có tâm nguyện trao đổi về việc hậu sự và những tâm nguyện trước khi chết, hãy lắng nghe một cách chân thành. Trong chừng mực những yêu cầu của họ không gây trở ngại cho cái chết an lành, hãy phát tâm nghe theo hoặc giúp đỡ họ!

Tránh sai lầm che giấu sự thật về cái chết

Một số người mắc những căn bệnh hiểm nghèo như ung thư, tuy nhiên, người thân của họ thường cho rằng, cách tốt nhất đối với người sắp chết là không cho họ biết về sự thật phũ phàng này. Họ tìm cách che đậy cái chết đến phút chót, tưởng rằng làm vậy sẽ giúp người chết bớt đau đớn. Ngược lại, hãy tỉnh táo suy ngẫm xem người chết sẽ ra sao khi vào phút cuối đời phải đối mặt với một cái chết nghiệt ngã mà họ hoàn toàn không có sự chuẩn bị? Chắc chắn rằng mọi sự đau đớn, bàng hoàng, nghi ngờ, oán hận sẽ gia tăng tột cùng. Thậm chí sau khi chết rồi, có thể thần thức người chết vẫn chưa nhận ra mình đã chết và sẽ tìm mọi cách níu kéo gia đình, người thân, tài sản của kiếp sống vừa qua. Như thế, thần thức sẽ khó lòng siêu thoát mà sẽ vất vưởng lưu đày trong cõi Cô hồn ngã quỷ, trở thành oan hồn quấy phá, não hại người đang sống.

Đức Drukpa Thuksey Rinpoche

Trích đoạn Brado sinh tử

Chủ Nhật, 24 tháng 3, 2024

Thông minh được hiểu như thế nào

Khái niệm về "Thông Minh" hay trí tuệ đã phát triển đáng kể qua thời gian. Trong khi IQ truyền thống tập trung vào khả năng ngôn ngữ, lý luận và toán học, Howard Gardner của Đại học Harvard đã mở rộng khái niệm này với lý thuyết về Multiple Intelligences. Lý thuyết này nhấn mạnh rằng có nhiều loại thông minh khác nhau, không chỉ giới hạn trong phạm vi học thuật. Các loại thông minh này bao gồm khả năng ngôn ngữ, lý luận toán học, không gian, vận động, âm nhạc, xã giao, tự nhận thức và hiểu biết về thiên nhiên. Mỗi loại thông minh đều có vai trò quan trọng trong việc định hình khả năng và thành công của một cá nhân trong các lĩnh vực khác nhau của cuộc sống. Sự đánh giá cao đa dạng trong thông minh giúp chúng ta hiểu rõ hơn về sự phức tạp của bản chất con người và khả năng thích ứng với thế giới xung quanh. Điều này cũng mở ra cánh cửa cho việc giáo dục và phát triển cá nhân được cá nhân hóa hơn, nhằm phát huy tối đa tiềm năng của mỗi người.

Ông nêu ra 8 chiều thông minh hay tài năng dưới đây:

- Tài năng về Ngôn Ngữ (Linguistic Intelligence): Năng khiếu về ngôn ngữ, viết lách

- Tài năng về Lý Luận-Toán Học (Logical-Mathematical Intelligence): Năng khiếu về phần các con số- lý luận, toán học.

- Tài năng về Không Gian (Spatial Intelligence): Năng khiếu về hình ảnh và hội họa

- Tài năng về các động tác vận chuyển của thân thể (Bodily-Kinesthetic Intelligence): Năng khiếu về các động tác của chân tay, chạy, nhẩy …

- Tài năng về âm nhạc

- Tài năng về cách xã giao (Interpersonal Intelligence): Khả năng biết cách đối xử với người khác (people smart)

- Tài năng về Nội Xét (Intrapersonal Intelligence): Khả năng về biết cách tự đương đầu với nội tâm và cách suy diễn từ nội tâm (self-smart)

- Tài năng hiểu biết về Thiên Nhiên, Vạn Vật (Naturalist Intelligence)

Việc bàn cãi về Thông Minh vẫn tiếp tục. Năm 1986, 25 nhà khảo cứu rất thông thái về đề tài “Thông Minh” đã cho rằng Thông Minh của con người bao gồm các lãnh vực như:

– khả năng về cách ứng xử với các vấn đề nan giải mới có trong cuộc đời (general adaptability to new problems in life)

– khả năng suy nghĩ trừu tượng (ability to engage in abstract thinking)

– biết cách ứng biến trong mọi hoàn cảnh (adjustments to the environment.

– khả năng trí tuệ và khả năng hiểu biết những gì đã có (capacity for knowledge and knowledge possessed)

– khả năng biết tự tập, suy nghĩ độc đáo và hiệu nghiệm trong suy tư (general capacity for independence, originality, and productiveness in thinking)

– biết cách kiếm thêm khả năng (capacity to acquire capacity)

– thấu triệt các mối liên quan thích đáng (apprehension of relevant relationships)

– khả năng biết xét đoán, thấu hiểu và suy luận (ability to judge, to understand and to reason)

– khả năng suy diễn các mối tương quan (deduction of relationships)

– khả năng thiên bẩm về nhận thức tổng quát (innate, general cognitive ability).


Trong khi chỉ số IQ từng được coi là tiêu chuẩn vàng để đánh giá trí thông minh, nhận thức hiện đại đã mở rộng để bao gồm cả khía cạnh của trí thông minh cảm xúc, hay EQ. Daniel Goleman, một nhà tâm lý học nổi tiếng, đã đóng góp quan trọng trong việc nâng cao nhận thức về EQ, nhấn mạnh rằng khả năng nhận biết và quản lý cảm xúc của bản thân và người khác là yếu tố then chốt cho sự thành công trong cuộc sống cá nhân và nghề nghiệp. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng EQ có thể là một dự báo tốt hơn cho thành công so với IQ, đặc biệt trong môi trường làm việc hiện đại, nơi mà sự tương tác và hợp tác giữa con người đóng vai trò quan trọng. Điều này đã dẫn đến sự thay đổi trong cách giáo dục và đào tạo, với một số trường học và tổ chức bắt đầu tích hợp các khóa học về kỹ năng cảm xúc vào chương trình giảng dạy của họ.

EQ bao gồm những gì? GS Goleman nêu lên 5 điểm chính sau đây:

1. Tỉnh Thức (Self Awareness): Mình nên biết lòng mình (emotions) và những cảm nhận (feelings) mà mình đang có.

2. Quản chế nỗi vui buồn (Mood Management): Cần biết cách đương đầu với những cảm nhận (feelings) đang xẩy ra để có thể đối phó và tự kiềm chế đúng lúc.

3. Ý đồ (Self-motivation): Cần gom góp lại những cảm nhận (feelings) đang hiện hữu và đưa chúng tới một mục tiêu rõ rệt mặc dù mình đang trù trừ (self-doubt), trì trệ (inertia), hoặc đang hành động bốc đồng (impulse)

4. Giao cảm (Empathy): Cần phải nhận biết được những cảm nhận (feelings) của người khác và tác động lại bằng ngôn từ (verbal cue) hay cử chỉ (nonverbal cue) cho đúng cách.

5. Cách Giao Tiếp (Managing Relationships): Cần có cách ứng xử (interpersonal interaction) cho hợp lý, hợp tình, biết cách hòa giải (conflict resolution) và thương lượng (negotiations).

GS Goleman còn cho biết “Thông Minh Xúc Cảm” không những giúp cho con người tránh được các hậu quả tai hại mà còn giúp cho con người sống hài hòa, an vui với vợ-chồng-con cái và thành công ngoài đời nữa. Ðiều đặc biệt là con người có thể học thêm và phát triển phần “Thông Minh Xúc Cảm” này nếu họ biết cách. Nếu không biết cách duy trì nó, con người sẽ còn giảm mất phần EQ nữa.

Nói tóm lại, nhờ có “Thông Minh Trí Tụê” (IQ) mà con người có thể học hành dễ dàng hơn nhưng như vậy vẫn còn chưa đủ. Ðó mới là phần “Trí”. Con người cần phải có thêm phần “Thông Minh Xúc Cảm” (EQ) thì mới biết cách ứng xử và thăng tiến kể từ khi bắt đầu đi học cho tới khi ra đời làm việc và về hưu. Các lãnh tụ, các chính trị gia thường có cả IQ lẫn EQ rất cao. Họ có thể rất là khôn ngoan, đức độ mà họ cũng có thể rất là gian hùng và tàn ác.

Trong thế giới ngày nay, sự phát triển của con người không chỉ dừng lại ở việc rèn luyện trí tuệ thông qua IQ hay xây dựng kỹ năng xã hội qua EQ. "Thông Minh Tâm Linh" (SI) hay còn gọi là Spiritual Intelligence, đã trở thành một khái niệm quan trọng, nhấn mạnh vào việc phát triển khía cạnh tâm linh và đạo đức của cá nhân. SI không chỉ liên quan đến việc hiểu biết về bản thân và mục đích sống, mà còn đề cập đến khả năng nhận thức và áp dụng các giá trị đạo đức trong cuộc sống hàng ngày. Điều này cho thấy sự chuyển mình từ việc đánh giá chỉ dựa trên năng lực trí tuệ hay cảm xúc, sang một cách tiếp cận toàn diện hơn, đánh giá con người dựa trên cả ba khía cạnh: trí tuệ, cảm xúc và tâm linh. Mặc dù SQ là một khái niệm tương đối mới và vẫn đang trong quá trình nghiên cứu và phát triển, nó đã mở ra một hướng đi mới cho việc hiểu và phát triển tiềm năng con người.  Nhờ có SQ mà con người có những ước mơ và cố gắng đạt nguyện chúng. SQ đặt vấn đề về phần tâm linh và vai trò của tôn giáo trong đời sống của con người.

Vì “mới ra lò” sau năm 2000 ít người đã biết đến SQ và SQ cũng đang còn ở trong thời kỳ phôi thai nên chúng ta chưa thực sự thấy rõ được cái tầm vóc và tương lai của SQ ra sao.


Sưu tầm from the internet


Khái niệm về "Thông Minh" hay trí tuệ đã phát triển đáng kể qua thời gian. Trong khi IQ truyền thống tập trung vào khả năng ngôn ngữ, lý luận và toán học, Howard Gardner của Đại học Harvard đã mở rộng khái niệm này với lý thuyết về Multiple Intelligences. Lý thuyết này nhấn mạnh rằng có nhiều loại thông minh khác nhau, không chỉ giới hạn trong phạm vi học thuật. Các loại thông minh này bao gồm khả năng ngôn ngữ, lý luận toán học, không gian, vận động, âm nhạc, xã giao, tự nhận thức và hiểu biết về thiên nhiên. Mỗi loại thông minh đều có vai trò quan trọng trong việc định hình khả năng và thành công của một cá nhân trong các lĩnh vực khác nhau của cuộc sống. Sự đánh giá cao đa dạng trong thông minh giúp chúng ta hiểu rõ hơn về sự phức tạp của bản chất con người và khả năng thích ứng với thế giới xung quanh. Điều này cũng mở ra cánh cửa cho việc giáo dục và phát triển cá nhân được cá nhân hóa hơn, nhằm phát huy tối đa tiềm năng của mỗi người.


Ông nêu ra 8 chiều thông minh hay tài năng dưới đây:


- Tài năng về Ngôn Ngữ (Linguistic Intelligence): Năng khiếu về ngôn ngữ, viết lách

- Tài năng về Lý Luận-Toán Học (Logical-Mathematical Intelligence): Năng khiếu về phần các con số- lý luận, toán học.

- Tài năng về Không Gian (Spatial Intelligence): Năng khiếu về hình ảnh và hội họa

- Tài năng về các động tác vận chuyển của thân thể (Bodily-Kinesthetic Intelligence): Năng khiếu về các động tác của chân tay, chạy, nhẩy …

- Tài năng về âm nhạc

- Tài năng về cách xã giao (Interpersonal Intelligence): Khả năng biết cách đối xử với người khác (people smart)

- Tài năng về Nội Xét (Intrapersonal Intelligence): Khả năng về biết cách tự đương đầu với nội tâm và cách suy diễn từ nội tâm (self-smart)

- Tài năng hiểu biết về Thiên Nhiên, Vạn Vật (Naturalist Intelligence)

Việc bàn cãi về Thông Minh vẫn tiếp tục. Năm 1986, 25 nhà khảo cứu rất thông thái về đề tài “Thông Minh” đã cho rằng Thông Minh của con người bao gồm các lãnh vực như:

– khả năng về cách ứng xử với các vấn đề nan giải mới có trong cuộc đời (general adaptability to new problems in life)

– khả năng suy nghĩ trừu tượng (ability to engage in abstract thinking)

– biết cách ứng biến trong mọi hoàn cảnh (adjustments to the environment.

– khả năng trí tuệ và khả năng hiểu biết những gì đã có (capacity for knowledge and knowledge possessed)

– khả năng biết tự tập, suy nghĩ độc đáo và hiệu nghiệm trong suy tư (general capacity for independence, originality, and productiveness in thinking)

– biết cách kiếm thêm khả năng (capacity to acquire capacity)

– thấu triệt các mối liên quan thích đáng (apprehension of relevant relationships)

– khả năng biết xét đoán, thấu hiểu và suy luận (ability to judge, to understand and to reason)

– khả năng suy diễn các mối tương quan (deduction of relationships)

– khả năng thiên bẩm về nhận thức tổng quát (innate, general cognitive ability).


Trong khi chỉ số IQ từng được coi là tiêu chuẩn vàng để đánh giá trí thông minh, nhận thức hiện đại đã mở rộng để bao gồm cả khía cạnh của trí thông minh cảm xúc, hay EQ. Daniel Goleman, một nhà tâm lý học nổi tiếng, đã đóng góp quan trọng trong việc nâng cao nhận thức về EQ, nhấn mạnh rằng khả năng nhận biết và quản lý cảm xúc của bản thân và người khác là yếu tố then chốt cho sự thành công trong cuộc sống cá nhân và nghề nghiệp. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng EQ có thể là một dự báo tốt hơn cho thành công so với IQ, đặc biệt trong môi trường làm việc hiện đại, nơi mà sự tương tác và hợp tác giữa con người đóng vai trò quan trọng. Điều này đã dẫn đến sự thay đổi trong cách giáo dục và đào tạo, với một số trường học và tổ chức bắt đầu tích hợp các khóa học về kỹ năng cảm xúc vào chương trình giảng dạy của họ.

EQ bao gồm những gì? GS Goleman nêu lên 5 điểm chính sau đây:

1. Tỉnh Thức (Self Awareness): Mình nên biết lòng mình (emotions) và những cảm nhận (feelings) mà mình đang có.

2. Quản chế nỗi vui buồn (Mood Management): Cần biết cách đương đầu với những cảm nhận (feelings) đang xẩy ra để có thể đối phó và tự kiềm chế đúng lúc.

3. Ý đồ (Self-motivation): Cần gom góp lại những cảm nhận (feelings) đang hiện hữu và đưa chúng tới một mục tiêu rõ rệt mặc dù mình đang trù trừ (self-doubt), trì trệ (inertia), hoặc đang hành động bốc đồng (impulse)

4. Giao cảm (Empathy): Cần phải nhận biết được những cảm nhận (feelings) của người khác và tác động lại bằng ngôn từ (verbal cue) hay cử chỉ (nonverbal cue) cho đúng cách.

5. Cách Giao Tiếp (Managing Relationships): Cần có cách ứng xử (interpersonal interaction) cho hợp lý, hợp tình, biết cách hòa giải (conflict resolution) và thương lượng (negotiations).

GS Goleman còn cho biết “Thông Minh Xúc Cảm” không những giúp cho con người tránh được các hậu quả tai hại mà còn giúp cho con người sống hài hòa, an vui với vợ-chồng-con cái và thành công ngoài đời nữa. Ðiều đặc biệt là con người có thể học thêm và phát triển phần “Thông Minh Xúc Cảm” này nếu họ biết cách. Nếu không biết cách duy trì nó, con người sẽ còn giảm mất phần EQ nữa.


Nói tóm lại, nhờ có “Thông Minh Trí Tụê” (IQ) mà con người có thể học hành dễ dàng hơn nhưng như vậy vẫn còn chưa đủ. Ðó mới là phần “Trí”. Con người cần phải có thêm phần “Thông Minh Xúc Cảm” (EQ) thì mới biết cách ứng xử và thăng tiến kể từ khi bắt đầu đi học cho tới khi ra đời làm việc và về hưu. Các lãnh tụ, các chính trị gia thường có cả IQ lẫn EQ rất cao. Họ có thể rất là khôn ngoan, đức độ mà họ cũng có thể rất là gian hùng và tàn ác.


Trong thế giới ngày nay, sự phát triển của con người không chỉ dừng lại ở việc rèn luyện trí tuệ thông qua IQ hay xây dựng kỹ năng xã hội qua EQ. "Thông Minh Tâm Linh" (SI) hay còn gọi là Spiritual Intelligence, đã trở thành một khái niệm quan trọng, nhấn mạnh vào việc phát triển khía cạnh tâm linh và đạo đức của cá nhân. SI không chỉ liên quan đến việc hiểu biết về bản thân và mục đích sống, mà còn đề cập đến khả năng nhận thức và áp dụng các giá trị đạo đức trong cuộc sống hàng ngày. Điều này cho thấy sự chuyển mình từ việc đánh giá chỉ dựa trên năng lực trí tuệ hay cảm xúc, sang một cách tiếp cận toàn diện hơn, đánh giá con người dựa trên cả ba khía cạnh: trí tuệ, cảm xúc và tâm linh. Mặc dù SQ là một khái niệm tương đối mới và vẫn đang trong quá trình nghiên cứu và phát triển, nó đã mở ra một hướng đi mới cho việc hiểu và phát triển tiềm năng con người.  Nhờ có SQ mà con người có những ước mơ và cố gắng đạt nguyện chúng. SQ đặt vấn đề về phần tâm linh và vai trò của tôn giáo trong đời sống của con người.

Vì “mới ra lò” sau năm 2000 ít người đã biết đến SQ và SQ cũng đang còn ở trong thời kỳ phôi thai nên chúng ta chưa thực sự thấy rõ được cái tầm vóc và tương lai của SQ ra sao.


Sưu tầm from the internet

Thứ Bảy, 23 tháng 3, 2024

Chữ "Niệm" trong đạo phật

Chúng ta tuy là những ngưòi phật tử thuờng về chùa để niệm Phật trong những ngày lễ lớn nhưng có thể sẽ không có nhiều người hiểu đúng nghĩa của chữ "Niệm" trong đạo Phật là như thế nào.

Theo định nghĩa thông thường, “Niệm” chính là nhớ nghĩ. Đó là hoạt động thuộc phạm vi tinh thần, thuộc phạm vi tâm thức cơ bản nhất.  Niệm cũng chính là sự sống vi tế, thâm sâu, u uẩn nhất mà lại thường trực nhất của con người nói riêng và của tất cả chúng sinh có khả năng tư duy nói chung. "Niệm" là một khái niệm quan trọng và phức tạp, không chỉ đơn thuần là nhớ nghĩ mà còn là một phần của quá trình tu tập tâm linh. Niệm được xem là cầu nối giữa thế giới vật chất và tâm thức, giữa hiện tại và quá khứ, giữa con người và các pháp môn tu tập. Khi niệm Phật, người tu tập không chỉ nhớ về hình ảnh hay lời dạy của Đức Phật mà còn phải duy trì sự tỉnh thức, sự chánh niệm trong từng suy nghĩ, từng hành động, nhằm hướng tâm về sự thanh tịnh và giải thoát. Sự niệm Phật không chỉ diễn ra trong chùa chiền hay trong những ngày lễ lớn mà còn phải được thực hành mỗi ngày, mọi lúc, mọi nơi, qua mọi suy nghĩ và hành động.

Niệm trong đạo Phật cũng có nhiều dạng và trạng thái khác nhau, phản ánh sự đa dạng của tâm thức và trải nghiệm tâm linh. Có thể là niệm trong sự tĩnh lặng của thiền định, hoặc niệm trong sự hoạt động của cuộc sống hàng ngày. Mỗi hình thức niệm đều có mục đích và ý nghĩa riêng, từ việc giúp chúng ta nhớ về những điều tốt đẹp, đến việc giúp chúng ta giải thoát khỏi những phiền não và vướng bận của cuộc sống. Ngay khi thân tứ đại đang có đây bị chết đi, bị hoại diệt, không còn hoạt động nữa (như khi tim ngừng đập, phổi ngừng thở...), "Niệm" vẫn còn hiện hữu nơi thần thức lưu chuyển hướng tìm đến, bám trụ vào các sinh duyên mới để hình thành một sinh thể khác. Niệm có nhiều dạng loại, trạng thái và tên gọi khác nhau trong đời sống thường ngày như tưởng niệm, mặc niệm,  suy niệm, hoài niệm, ức niệm,.Trong đạo Phật, chúng ta lại thường hay nghe về khởi niệm, động niệm, tà niệm, tạp niệm, thất niệm,  vọng niệm, chánh niệm, vô niệm… Chữ “niệm” trong đạo Phật đã có nhiều ý nghĩa là vậy và được sử dụng trong nhiều khía cạnh. Dưới đây là một số khía cạnh quan trọng liên quan đến chữ “niệm”:

Niệm hơi thở: Đây là một pháp thiền quan trọng mà Đức Phật đã dạy. Niệm hơi thở giúp tăng cường sự tỉnh thức và làm sáng tỏ tâm hồn. Từ việc niệm hơi thở đến thiền sâu sắc, chúng ta có thể trải qua nhiều giai đoạn niệm khác nhau.

Niệm giới: Niệm giới liên quan đến việc nhớ và tu tập theo các giới luật. Đây là pháp cốt lõi của Luật tông. Niệm giới giúp chúng ta sống an ổn tự tại và tránh xa khỏi tà niệm và vọng niệm.

Niệm kinh: Niệm kinh là việc nhớ và tu tập theo các kinh điển. Đây là pháp cốt lõi của đạo Phật. Niệm kinh giúp chúng ta hiểu rõ hơn về lời dạy của Đức Phật và áp dụng nó vào cuộc sống hàng ngày.

Niệm thoát: Niệm thoát bao gồm nhiều khía cạnh khác nhau, từ niệm thoát tham, sân si đến niệm thoát sinh tử. Thực tập niệm thoát giúp chúng ta vượt qua khổ sầu và đạt được sự an vui tự tại.

  Nhớ rằng, chữ “niệm” có thể được hiểu theo nhiều cách khác nhau, từ thấp đến cao, từ thô đến tế. Tùy thuộc vào tông phái và pháp môn, niệm có những ý nghĩa khác nhau, nhưng tất cả đều liên quan đến việc nhớ và tỉnh thức. Cho nên khi chúng ta hiểu rỏ được ý nghĩa thâm thúy của niệm thì trong mỗi ý nghĩ trong tâm thức đã vô tình đưa chúng ta đến một nơi chốn nào đó . 

Chánh niệm, một khái niệm quan trọng trong đạo Phật, là sự tỉnh thức và nhận thức đầy đủ về hiện tại, không bị lôi cuốn bởi quá khứ hay lo lắng về tương lai. Đây là trạng thái tâm thức mà mỗi Phật tử đều hướng tới, như một phần của con đường tu tập và giác ngộ. Sống chánh niệm giúp chúng ta giữ được tâm hồn trong sáng và bình an, dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào.

Cuối cùng, việc thực hành niệm Phật không chỉ là một nghi thức tôn giáo mà còn là một phương pháp tu tập tâm linh, giúp chúng ta kết nối với bản thân và vũ trụ, nhận ra sự thật của cuộc sống và vượt qua vòng luân hồi sinh tử. Khi chúng ta thấu hiểu và thực hành đúng đắn ý nghĩa của niệm, chúng ta sẽ tìm thấy sự bình yên và hạnh phúc trong từng khoảnh khắc của cuộc sống. Đó là mục tiêu cuối cùng của mọi người Phật tử trong hành trình tâm linh của mình.


Thứ Sáu, 22 tháng 3, 2024

10 điều tâm niệm để bắt đầu một ngày mới.

 Chúng ta ai cũng khao khát cuộc sống thành công và hạnh phúc nhưng bạn đã bao giờ cảm thấy rằng điều đó đến với một số người dễ dàng hơn những người khác chưa? Có lẽ đã đến lúc có chúng ta phải nhìn theo một góc nhìn mới! Theo lời khuyên của ngài Sadhguru thì mỗi ngày bắt đầu của bạn hảy lập đi lập lại những câu thần chú sau đây thì thành công may mắn hạnh phúc sẽ tìm đến với bạn rất dễ dàng mà không hề căng thẳng 

1-  Quên vận may đi, sống có mục đích

Một số điều có thể xảy ra một cách tình cờ. Nhưng nếu bạn chờ đợi cơ hội, những điều tốt đẹp sẽ chỉ đến với bạn khi bạn đã xuống mồ vì mọi thứ có thể cần có thời gian. Ngay cả lý thuyết lượng tử cũng nói rằng nếu bạn cố gắng, bạn thực sự có thể đi xuyên qua bức tường một lần trong "hàng tỷ" lần vì có một rung động của các hạt xảy ra và bạn có thể đi xuyên qua. Chỉ là trước khi bạn đạt đến lần thứ một tỷ đó, bạn sẽ bị nứt hộp sọ. Khi bạn sống ngẫu nhiên, bạn cũng sống trong sợ hãi và lo âu. Khi bạn sống có mục đích và năng lực thì chuyện gì xảy ra hay không xảy ra không quan trọng, ít nhất bạn cũng kiểm soát được những gì đang xảy ra với mình. Đó là một cuộc sống ổn định hơn.

2- Dừng ngay sự phục lỗi

Đối với một người đàn ông tận tâm, không có gì gọi là thất bại. Nếu bạn ngã 100 lần một ngày thì bạn rút ra được 100 bài học. Nếu bạn cam kết như vậy với việc tạo ra những gì bạn thực sự quan tâm, tâm trí của bạn sẽ có tổ chức. Một khi tâm trí của bạn được tổ chức, cảm xúc của bạn cũng sẽ được tổ chức vì cách bạn suy nghĩ cũng chính là cách bạn cảm nhận. Một khi suy nghĩ và cảm xúc của bạn được tổ chức, năng lượng và cơ thể của bạn cũng sẽ được tổ chức. Một khi cả bốn điều này được sắp xếp theo một hướng, khả năng sáng tạo và thể hiện những gì bạn muốn của bạn sẽ trở nên phi thường. Bạn là người sáng tạo theo nhiều cách.

3-Làm việc một cách rõ ràng

Điều con người cần là sự rõ ràng chứ không phải sự tự tin. Nếu bạn muốn đi qua một đám đông, nếu tầm nhìn của bạn rõ ràng và bạn có thể thấy mọi người ở đâu, bạn có thể đi xuyên qua cả đám đông mà không chạm vào bất kỳ ai. Nếu tầm nhìn của bạn không rõ ràng nhưng bạn có sự tự tin, bạn sẽ vượt qua mọi người. Vì không có sự rõ ràng nên mọi người cho rằng sự tự tin là một sự thay thế tốt. Nó chỉ là không thể được. Giả sử bạn đưa ra tất cả các quyết định quan trọng trong cuộc đời mình như thế này: kiếm cho mình một đồng xu, tung nó lên. Nếu là ngửa thì một đằng, sấp một nẻo. Nó hoạt động 50% thời gian. Nếu bạn chỉ đúng trong 50% thời gian, thì chỉ có hai nghề mà bạn có thể theo đuổi – người dự báo thời tiết hoặc nhà chiêm tinh. Bạn không thể giữ bất kỳ công việc nào khác trên hành tinh này.


4- Chấp nhận những người và những điều bạn không thích

Để xử lý các loại tình huống khác nhau trong cuộc sống, chúng ta cần những loại bản sắc khác nhau. Nếu bạn linh hoạt trong việc đó, nếu bạn có thể thay đổi từ cái này sang cái khác một cách duyên dáng, thì bạn có thể hoàn thành tốt vai trò của mình mà vẫn không gặp vấn đề gì với nó. Nhưng đối với hầu hết mọi người, tính cách của họ giống như một tảng đá. Nó luôn đè nặng lên họ và khiến họ phải chịu đựng bất cứ điều gì không phù hợp với phạm vi của nó.


Nếu bạn phải phá vỡ điều đó, bạn phải làm điều gì đó ngược lại. Đây là điều đơn giản bạn có thể làm: lập nhóm với ai đó mà bạn không thích. Hãy dành thời gian bên người đó, thật yêu thương, thật vui vẻ. Hãy học cách làm những việc mình không thích, ở bên những người mình không thích mà vẫn sống một cách hợp lý, yêu thương và vui vẻ.

5- Bỏ tính toán của bạn

Không cần thiết phải khao khát sự vĩ đại. Nếu bạn tập trung và tham vọng vào cuộc sống của mình vượt xa những mối bận tâm về việc bạn là ai, thì dù sao bạn cũng sẽ là một con người tuyệt vời. Nếu bạn nhìn vào một số người, sự vĩ đại đến với họ không phải vì họ đang tìm cách trở nên vĩ đại, mà bởi vì cách họ nhìn cuộc sống vượt xa "còn tôi thì sao?"


Nếu bạn bỏ qua phép tính này, "Còn tôi thì sao?" từ cái đầu của bạn, và hoạt động theo khả năng tốt nhất của bạn, theo một cách nào đó, bạn sẽ trở nên tuyệt vời bởi vì bạn sẽ tự nhiên nhìn vào, “Tôi có thể làm gì với tất cả cuộc sống xung quanh mình?” Vì vậy, bạn sẽ tự nhiên nâng cao khả năng của mình vì có quá nhiều việc phải làm!

6-Yoga để thành công

Cả hệ thống thần kinh và năng lượng đều phân nhánh lớn từ xương bả vai trở lên. Vì vậy, việc giữ cho vùng cổ luôn trong tình trạng tốt là rất quan trọng. Trong vòng 3-4 phút thực hiện các bài tập cổ này, bạn sẽ thấy rõ rằng mình tỉnh táo hơn rất nhiều. Mức độ tái tạo tế bào thần kinh cao hơn, trí nhớ và sự nhạy bén về trí tuệ cũng được cải thiện.


7- Hãy bình tĩnh và cởi mở

Để thành công trên thế giới, điều cơ bản bạn cần là sức mạnh của trí óc và cơ thể. Nếu bạn muốn khai thác tâm trí, một trong những phẩm chất quan trọng nhất là sự bình tĩnh. Sự bình tâm cho phép bạn tiếp cận những chiều kích khác nhau của tâm trí. Nếu không có sự bình tâm, khả năng sử dụng tâm trí của bạn sẽ giảm đi rất nhiều. Một phẩm chất quan trọng khác là mức năng lượng của bạn - bạn cần sự phấn chấn, cả về mặt sinh lý lẫn bên trong. Chỉ khi năng lượng của bạn dồi dào, bạn mới có khả năng vượt qua những trở ngại trong cuộc sống hàng ngày và tiến tới thành công. Nếu sự bình tĩnh và hồ hởi được đưa vào tâm trí và cơ thể bạn, thành công sẽ đến với bạn dễ dàng hơn nhiều.

8-Điều chỉnh cái nhìn sâu sắc của bạn

Cái nhìn sâu sắc có nghĩa là bạn chú ý đến cuộc sống xung quanh mình theo cách mà bạn có thể nhìn thấy những thứ mà hầu hết mọi người không thể nhìn thấy. Nếu không có sự sáng suốt thì không có gì để theo đuổi và nỗ lực hết mình. Sự tầm thường có thể được chuyển hóa thành hoạt động phi thường chỉ khi có một sự hiểu biết sâu sắc về điều gì đó.

9- Tìm cảm hứng của bạn

Một khía cạnh quan trọng khác là liên tục được truyền cảm hứng. Hãy nhìn vào lý do tại sao bạn đang làm những việc bạn đang làm và thấy được khía cạnh lớn hơn của nó, sự đóng góp của bạn qua từng việc nhỏ bạn làm trong cuộc sống. Mỗi hành động mà con người thực hiện đều là sự đóng góp cho một chiều không gian nào đó của thế giới này. Bất kể bạn đang làm gì, ai đó cũng có thể được hưởng lợi từ việc đó. Ý thức được sự đóng góp của mình sẽ giúp bạn luôn có cảm hứng.

10- Đặt tiêu chuẩn vàng về tính chính trực

Tính chính trực rất quan trọng vì khi bạn muốn hoạt động trên thế giới, mức độ tin cậy mà bạn tạo ra với những người bạn tương tác sẽ quyết định những nỗ lực hàng ngày của bạn dễ hay khó. Nếu có được bầu không khí tin cậy, khả năng làm việc của bạn sẽ được nâng cao lên rất nhiều – đơn giản vì mọi người sẽ mở đường cho bạn thay vì tạo ra những trở ngại.


Bài thuyết giảng thiền sư Sadhguru

Thứ Năm, 21 tháng 3, 2024

Tính cách hay ý thức?


Làm thế nào để phát triển một tính cách đủ mạnh mẽ để không bị bất cứ điều gì làm phiền và không mất bình tĩnh? Khi bạn đi biển, ngắm biển. Hàng triệu con sóng có đó, nhưng sâu trong chiều sâu của nó, biển vẫn bình lặng và tĩnh lặng, Sâu trong thiền. Sự rối loạn chỉ ở trên bề mặt, ngay trên bề mặt nơi biển gặp thế giới bên ngoài đó là gió. Ngược lại, biển sẽ không bao giờ gợn sóng nếu không gặp gió và biển sẽ thật yên tĩnh, không có gì thay đổi.


Với chúng ta cũng vậy. Ngay ở bề ngoài khi chúng ta bị môi trường bên ngoài chi phối, nơi chúng ta gặp những người không nên gặp. Họ sẽ như những cơn gió làm biển gợn sóng, họ đã làm cho chúng ta có sự hỗn loạn, lo lắng, giận dữ, gắn bó, tham lam, thèm khát...đây là bề mặt đã chạm vào bạn như gió chạm vào bề mặt của biển. Nếu bạn vẫn tiếp tục để nguyên hiện trạng bề mặt này thì bạn sẽ không thay đổi được điều này và nó sẽ mãi mãi đi theo bạn.


Các nhà đạo đức đều cố gắng thay đổi con người ở ngoại vi. Nhân vật của bạn là ngoại vi: bạn không mang bất kỳ nhân vật nào vào thế giới, bạn tới hoàn toàn không có tính cách, một tờ giấy trắng, và tất cả những gì bạn gọi là nhân vật của bạn đều được viết bởi người khác. Cha mẹ bạn, xã hội, giáo viên, giáo lý – tất cả đều là điều kiện. Bạn tới như một tờ giấy trắng, và bất kì cái gì được viết lên bạn đều tới từ người khác; vì vậy trừ khi bạn tẩy rửa hết những điều họ viết lên biên bản con người bạn để bạn lại trở thành một tờ giấy trắng như khi bạn đến thế giới này thì bạn sẽ không biết Đạo là gì sự thật hiển hữu là gì.

Chúng ta đều có tính cách mạnh mẽ, đều có thể giận dữ, đều có thể bị làm phiền. Nhưng vấn đề không phải là làm sao để tránh hết những vấn đề này. Vấn đề chính là làm sao thay đổi ý thức của chúng ta từ bên ngoài để đi vào chính trung tâm con người bên trong của chúng ta. Rồi bỗng nhiên bạn thấy mình luôn bình tĩnh và bạn sẽ có một tầm nhìn rất xa rất chuẩn xác cho mọi vấn đề.

Sự khác biệt giữa các vị Phật và chúng ta không phải vì tính cách của họ; đó không phải là khác biệt về đạo đức, đó không phải là khác biệt về đức hạnh hay phi đức hạnh, đó là khác biệt về nơi chúng ta đặt nền tảng cho mình.

Khi bạn đã đặt ra được nền tảng cho mình thì mọi việc rất dễ kiểm soát, rất dễ chuyển hóa. Bạn có thể kiểm soát cơn giận của mình, nhưng bạn sẽ làm gì? - bạn sẽ kìm nén nó. Và điều gì xảy ra khi bạn kìm nén một điều gì đó? Hướng chuyển động của nó thay đổi: nó đi ra ngoài, và nếu bạn kìm nén nó, nó bắt đầu đi vào.Và để cơn giận bộc phát ra ngoài là điều tốt, bởi vì chất độc cần phải được tống ra ngoài. Thật tệ khi cơn giận di chuyển vào bên trong, bởi vì điều đó có nghĩa là toàn bộ cấu trúc cơ thể tâm trí của bạn sẽ bị đầu độc bởi nó. Và thế rồi nếu bạn tiếp tục làm điều này trong một thời gian dài...như mọi người đã từng làm, bởi vì xã hội dạy là chúng ta phải kiểm soát thay vì cảm hóa. Mọi người đều có lý do để than trách và giận dữ và đỗ lỗi cho người khác thay vì bản thân mình.

Nói tóm lại tính cách hay ý thức đều do chúng ta làm nên phiên bản con người của chúng ta.

Thứ Tư, 20 tháng 3, 2024

Sống đơn giản chính là hành trình đi đến giác ngộ

" Sống đơn giản chính là hành trình đi đến giác ngộ" cụm từ tiếng Việt đẹp đẽ này gói gọn sự khôn ngoan của sự đơn giản mà trong đạo Phật được gọi là giác ngộ. Đây chỉ là một ẩn dụ gợi ý rằng sự giác ngộ thực sự nằm ở việc chấp nhận một cuộc sống đơn giản, gọn gàng. Khi chúng ta buông bỏ những phức tạp và phiền nhiễu không cần thiết, chúng ta có thể tìm thấy sự rõ ràng và hiểu biết sâu sắc hơn.

Đã có rất nhiều sách của người Nhật Bản viết về những phương cách đơn giản hóa cuộc sống. Qua bài viết này tôi chỉ muốn giúp bạn thêm một vài cách buông bỏ sự phức tạp mà bạn đã đang sống trong đó theo một số quan điểm của giáo lý đạo Phật. Sự đơn giản ở đây được hiểu như cách bạn sống trong tỉnh thức mỗi ngày vậy. Thí dụ về bản thân tôi lúc trước khi tôi đi theo khuynh hướng "ăn sáng như vua, ăn trưa như tể tướng và ăn tối như ăn mày" thì buổi ăn sáng của tôi rất trịnh trọng. Tuy nhiên sau này khi tôi tham gia vào những khóa học dinh dưỡng thì những bữa ăn của tôi chỉ tập trung vào mức độ cần thiết cho một cơ thể khỏe mạnh nhưng không nhất thiết phải thật nhiều mùi vị trong đó. Sự thay đổi này khiến cho dần dần tôi có thể đi theo bước chân Phật đó là mỗi bữa ăn sẽ còn lại rất ít và giảm dần đi.

Ngoài ra, dọn dẹp ngôi nhà của bạn chính là một phần của buông bỏ trong đạo phật khi chỉ còn lại những gì bạn cần sử dụng để không gian của bạn có nhiều khoảng trống. Sự bề bộn vì nhiều đồ đạc cũng gần giống như tâm trí của bạn chứa quá nhiều thông tin không cần thiết.

Khi bạn nhận thức được điều này cũng đồng nghĩa bạn đang suy nghiệm về những gì thực sự quan trọng với bạn. Đầu tư thời gian và năng lượng của bạn vào các hoạt động và mối quan hệ có ý nghĩa. Đôi khi, càng ít càng tốt khi nói đến các cam kết và nghĩa vụ. Ngoài ra, cách suy nghĩ này chính là đơn giản hóa cách bạn nhìn sự việc giữa sự thật và giả thuyết.

Trong cuộc sống bận rộn, chúng ta thường quên đi giá trị của sự tĩnh lặng. Cho phép bản thân có những giây phút yên tĩnh, nơi bạn đơn giản tồn tại mà không có mục đích cụ thể nào. Những khoảng dừng này có thể giúp bạn trẻ hóa và giúp bạn đánh giá cao cuộc sống tĩnh lặng hơn. Khi sự tĩnh lặng thường xuyên đến với bạn, bạn sẽ có nhiều cơ hội để thực hành lòng biết ơn ngay cả với những phước lành nhỏ nhặt nhất, ví dụ như một ngày nắng đẹp hay mưa dầm lê thê cũng không ảnh hưởng gì đến tâm thức của bạn.

Trong  tĩnh lặng của sự đơn giản, chúng ta khám phá ra những sự thật sâu sắc. Như hoa sen nở trong nước tĩnh lặng, giác ngộ hiện diện với những ai tìm kiếm nó bằng trái tim trong sáng.Sống đơn giản hay là sự giác ngộ đến với bạn cho phép chúng ta tập trung vào nhứng gì quan trọng. Điều này sẽ giảm bớt sự căng thẳng. Hãy nhớ rằng, sự đơn giản không có nghĩa là thiếu thốn; đó là việc có chủ đích lựa chọn những gì thực sự làm phong phú cuộc sống của bạn.


Cầu mong hành trình hướng tới sự đơn giản sẽ dẫn bạn đến những hiểu biết sâu sắc, bình an nội tâm và đó cũng chính là con đường dẫn đến giác ngộ.

Thứ Ba, 19 tháng 3, 2024

Chết già tự nhiên

 Theo giáo lý đạo Phật thì chuyện lão hóa không ai tránh khỏi. Để khi chúng ta già đi và chết tự nhiên là một quá trình mà chúng ta phải rèn luyện. Đôi khi người thân không muốn chúng ta rời xa họ nên thường đi theo lời khuyên của bác sĩ như là đặt ống dinh dưỡng , ống thở v..v. Bài viết này được đăng trên mạng ã hội về "chết già tự nhiên" của người Nhật Bản. Chúng ta cùng chiêm nghiệm nhé.

Giáo sư Masahiro Akishita thuộc Đại học Tokyo, đồng thời là chủ tịch hiệp hội Lão khoa Nhật Bản cho biết việc hồi sức tim, phổi hoặc sử dụng dinh dưỡng nhân tạo kéo dài sự sống với người già đang giảm dần hiện nay.

Masahiro Akishita tiền thân là một bác sĩ phẫu thuật mạch máu hàng đầu Nhật Bản, từng được đánh giá là một trong 100 bác sĩ giỏi nhất nước này. Ông cho biết, mặc dù bản thân luôn tin rằng chiến đấu với bệnh tật là nhiệm vụ của bác sĩ và "cái chết là sự thua cuộc với Thần Chết", tuy nhiên, khi đối mặt với các căn bệnh của người già, đặc biệt là những bệnh nhân không thể điều trị, ông bắt đầu nhận ra một thực tế: dù y tế có tiến bộ thế nào đi nữa, không có cách nào để tạo nên một sức nặng đối trọng với sự lão hóa tự nhiên.

Masahiro Akishita từng thăm nhà tế bần St Christopher's Hospice, Anh. Nơi này đã đánh dấu sự thay đổi trong cách nhìn của ông về cuộc sống. Ở đây, ông chứng kiến những người bệnh ung thư giai đoạn cuối được chăm sóc giảm nhẹ, thay vì dành thời gian để loại bỏ cơn đau bằng cách sử dụng máy móc y tế, họ vẽ tranh, chơi piano, hút xì gà... Trong những giờ phút cuối đời, họ làm những điều mình muốn, và đó là "những khoảnh khắc có ý nghĩa phi thường".

Với những trải nghiệm sau chuyến đi, bác sĩ người Nhật rời viện nơi mình đang công tác và đến một viện dưỡng lão mới, nơi đang gặp khó khăn vì thiếu bác sĩ. Tại đây, ông cùng cộng sự chia sẻ cách chăm sóc bệnh nhân trong những ngày cuối đời, cùng thảo luận với người nhà họ về việc làm thế nào để người bệnh được giảm thiểu tác động y tế (ví dụ như đặt ống xông dạ dày nếu gặp khó khăn khi ăn uống).

Câu chuyện ly nước trên đảo Miyakejima

Tiến sĩ Masahiro Akishita đã trải nghiệm những ca khiến ông suy nghĩ sâu sắc về giá trị của việc lựa chọn "chết già". Ví dụ như một phụ nữ quê ở đảo iyakejima, thuộc quần đảo Izu, Nhật Bản. Người bệnh trong quá trình ăn, thức ăn lọt vào đường khí quản, gây viêm phổi. Bác sĩ đề nghị đặt ống thông qua đường mũi để cung cấp dinh dưỡng. Tuy nhiên, người con trai của bệnh nhân nói: "Trên đảo của chúng tôi, nếu một người quá già để ăn, chỉ nên đặt ly nước ở bên cạnh. Nếu người đó vẫn còn sức sống, họ sẽ vươn ra để uống ly nước. Còn nếu không thể làm điều đó, hãy cứ để cho họ như vậy. Tôi không thể từ chối việc đặt nội khí quản cho mẹ, nhưng thật đau đớn khi thấy mẹ phải ăn qua đường ống".

Người đàn ông nói với bác sĩ, cái chết là một sự thật tự nhiên không thể bị xâm phạm với những người dân trên đảo. Anh đã quen với sự ra đi yên bình như thế của những người thân thiết theo cách đó. Đến nay, văn hóa ấy không còn, thay vào đó, nhiều người già ở trên đảo sẽ kết thúc cuộc sống trong một bệnh viện, nhưng anh cho rằng cách truyền thống sẽ tốt hơn.

Trải nghiệm thứ hai mà bác sĩ người Nhật trải qua, là quá trình điều trị cho một cặp vợ chồng già. Người vợ mắc chứng mất trí nhớ và gặp vấn đề về ăn uống, rất khó để nuốt ngay cả những thức ăn đơn giản nhất, bà được gửi tới viện dưỡng lão, còn người chồng một mình ở nhà, mỗi ngày đều vào thăm vợ hai lượt, điều này kéo dài một năm rưỡi.

Người chồng thay vì đặt ống thông cho vợ, ép buộc vợ ăn, ông nhẫn nại chăm sóc vợ với mỗi ngày hai gói thạch, mỗi gói 300 calo. Mặc dù tổng lượng calo bà nạp vào người chỉ 600 calo/ngày, mà theo bác sĩ là "không đủ để duy trì sự sống", chồng bà không muốn làm vợ khổ bằng cách đặt ống.

Ông nói thời trẻ vợ đã chăm sóc ông rất tốt, giờ là lúc ông đền đáp lại, và "hãy để cô ấy ăn những gì có thể". Thời gian ngủ của bà cụ mỗi ngày một dài, và cuối cùng, một ngày, bà ra đi trong yên lặng. Không ép ăn, không đặt nội khí quản, chỉ đồng hành bên người vợ trong suốt hành trình chăm sóc, đó là lựa chọn của người chồng.

Khảo sát mới nhất của Nhật Bản cho thấy, 90% người Nhật trên 55 tuổi từ chối chấp nhận điều trị y tế kéo dài cuộc sống, trái lại, muốn để cái chết diễn ra một cách tự nhiên. Đối với họ, "chết già" là lời tạm biệt đẹp đẽ nhất với cuộc đời.

Tờ The Asahi Shimbun đưa tin, ngày càng nhiều người Nhật "chết tự nhiên" do tuổi già, đây hiện được xếp là nguyên nhân thứ ba gây tử vong sau ung thư và tim mạch, theo thống kê của Bộ Y Tế. Sự gia tăng số người mất vì tuổi già một phần do ngày càng nhiều người chọn mất ở nhà riêng hoặc các cơ sở chăm sóc điều dưỡng, thay vì đến bệnh viện và sử dụng các liệu pháp kéo dài cuộc sống.


Thiên Lan sưu tầm 

PS: Khi còn trẻ chúng ta hảy chăm sóc sức khỏe cho thật tốt. Hảy để chuyện ra đi một cách tự nhiên. Đừng kéo dài một thân thể đã già yếu chỉ làm tổn thương thêm mà thôi.

Thứ Hai, 18 tháng 3, 2024

Chấp Nhận Thua Thiệt Cho Mình, Trao Tặng Chiến Thắng Cho Người

Khi người khác, vì lòng ganh tỵ, bạc đãi bạn bằng lời trách mắng, sỉ nhục và thậm tệ hơn nữa, nguyện nhận lấy thua thiệt và dành thắng lợi cho họ.

Nếu như có ai nhục mạ, hành hung hay chỉ trích mình, nói những điều như là mình không có đủ khả năng, không biết làm gì cả, thì có thể ta sẽ rất tức giận và tranh cãi về những điều họ đã nói. Phải cố gắng đừng phản ứng như vậy. Thay vì vậy thì phải chấp nhận những lời khắc nghiệt này bằng lòng khiêm tốn và khoan dung.

Dù phải khiêm tốn và chấp nhận lời cay nghiệt, nhưng đồng thời, cũng phải thực tế về những phẩm chất tốt đẹp của mình. Tuy nhiên, phải phân biệt giữa lòng tự tin vào khả năng của mình, và tâm tự hào. Phải tự tin đối với bất cứ phẩm chất và kỹ năng tốt đẹp nào mà mình có được, và sử dụng chúng một cách can đảm, mà không tự hào kiêu căng. Khiêm tốn không có nghĩa là cảm thấy hoàn toàn bất tài và bất lực. Lòng khiêm tốn được trưởng dưỡng như pháp đối trị lòng kiêu hãnh, nhưng phải sử dụng tối đa bất cứ phẩm chất tốt đẹp nào của mình.

Cách lý tưởng là phải có lòng can đảm và sức mạnh, mà không khoe khoang hay làm lớn chuyện về điều này. Rồi thì vào những lúc cần thiết, mình sẽ vươn lên đúng lúc và chiến đấu dũng cảm cho lẽ phải. Đó là cách hoàn hảo. Nếu như không có những phẩm chất tốt đẹp này mà lại đi khoa trương là mình tuyệt vời như thế nào, rồi đến khi cần thiết thì lại thu mình lại, thì ta chỉ là người trái ngược với loại người nói trên. Loại người đầu tiên rất can đảm, nhưng không tự hào; loại người thứ hai thì rất tự hào, nhưng lại không can đảm.

Đối với lời khuyên để chấp nhận thua thiệt cho bản thân và nhường chiến thắng cho tha nhân thì phải phân biệt hai loại tình huống. Nếu như một mặt thì mình bị ám ảnh vì phúc lợi của mình, và có động lực rất ích kỷ, thì phải chấp nhận thất bại và trao tặng chiến thắng cho người khác, ngay cả khi mạng sống của mình bị đe dọa. Nhưng nếu như ở mặt khác thì phúc lợi của người khác bị đe dọa, thì mình phải làm việc rất siêng năng và đấu tranh cho quyền lợi của họ, và không chấp nhận thua thiệt. Sau rốt thì một trong 46 bồ tát giới khinh là, trong tình huống mà người nào đang làm điều gì rất có hại, thì nên sử dụng biện pháp mạnh mẽ, hay bất cứ điều gì khác cần thiết, để ngăn chận hành vi của người đó ngay lập tức, nếu như tất cả những biện pháp êm thắm đều thất bại. Nói cách khác là nếu như không có hành động mạnh mẽ khi mình có khả năng làm như vậy, thì ta đã vi phạm giới nguyện đó.


Có vẻ như bồ tát giới này và vần kệ thứ năm ở đây nói rằng người ta phải chấp nhận thua thiệt và trao tặng chiến thắng cho người khác là điều mâu thuẫn; nhưng không phải vậy. Bồ tát giới đương đầu với tình huống mà phúc lợi của người khác là mối quan tâm hàng đầu của mình: nếu như người nào đang làm điều gì cực kỳ tai hại và nguy hiểm, thì việc không áp dụng biện pháp mạnh mẽ để ngăn chận điều đó là sai, nếu như cần phải làm như vậy.


Ngày nay, trong các xã hội có tinh thần rất cạnh tranh thì những hành vi phòng thủ mạnh mẽ hay tương tự như vậy thường là điều cần thiết. Tuy nhiên, động lực đối với những điều này không được là lòng ích kỷ, mà phải là lòng từ bi đối với người khác. Nếu như mình hành động bằng động lực đúng đắn như vậy để giúp người khác không tạo ác nghiệp thì hoàn toàn đúng.


Còn về cách đánh giá khi nào cần phải có hành động mạnh mẽ thì đó là việc phức tạp. Khi cân nhắc việc gánh lấy thua thiệt cho mình thì cần phải xem liệu việc trao tặng chiến thắng cho người khác sẽ mang lại lợi ích lâu dài cho họ, hay chỉ tạm thời thôi. Còn phải xem xét ảnh hưởng của việc chấp nhận thua thiệt cho mình, đối với năng lực hay khả năng giúp đỡ người khác trong tương lai. Cũng có thể là khi làm điều gì có hại cho người khác trong hiện tại thì ta sẽ tạo ra rất nhiều lực tích cực hay công đức, và điều đó sẽ giúp mình làm những việc tạo ra lợi lạc lớn hơn cho người khác về lâu về dài. Đây là một yếu tố khác mà mình phải suy xét. lợi ích của một hành vi thường bị cấm cản mà được thực hiện với bồ đề tâm thì sẽ vượt xa ác nghiệp, khi nó được thực hiện mà không đi kèm với động lực này.


Tuy điều này cực kỳ quan trọng, nhưng đôi khi, có thể rất khó nhận ra ranh giới giữa những điều nên làm và những điều nên bỏ. Do đó, phải nghiên cứu các bản văn giải thích về những điều này. Những bản văn thấp hơn thì sẽ nói rằng một số hành vi bị cấm đoán; trong khi những bản văn cao hơn thì nói rằng những hành vi như vậy được cho phép. Càng hiểu biết nhiều về tất cả những điều này thì ta sẽ càng dễ quyết định hơn là mình phải làm gì trong bất cứ tình huống nào.


Mong rằng chúng ta nên tập luyện hạnh nguyện này 


Trích trong 6 bài kệ về "Luyện Tâm Bát Đoạn" của Langri Tangpa.

Chủ Nhật, 17 tháng 3, 2024

Hướng dẫn Ăn ít Carb lành mạnh cho bệnh nhân tiểu đường

 Bệnh tiểu đường là một căn bệnh mãn tính ảnh hưởng đến nhiều người trên toàn cầu. Hiện nay trên toàn thế giới có hơn 500 triệu người mắc bệnh tiểu đường .Mặc dù bệnh tiểu đường là một căn bệnh phức tạp nhưng việc duy trì lượng đường trong máu ở mức tốt có thể làm giảm đáng kể nguy cơ biến chứng. Một trong những cách để đạt được lượng đường trong máu tốt hơn là tuân theo chế độ ăn rất ít carb, trong đó ít hơn 10% tổng lượng calo của bạn đến từ carbohydrate. Bài viết này cung cấp một cái nhìn tổng quan chi tiết về chế độ ăn kiêng rất ít carb để kiểm soát bệnh tiểu đường.


Bệnh tiểu đường là gì và thực phẩm có vai trò gì?
Khi cơ thể không thể xử lý carbohydrate một cách hiệu quả sẻ gây ra bệnh tiểu đường.Thông thường, khi bạn ăn carbs, chúng sẽ bị phân hủy thành các đơn vị glucose nhỏ và được hấp thụ vào máu. Khi lượng đường trong máu tăng lên, tuyến tụy sẽ phản ứng bằng cách sản xuất ra hormone insulin. Hormon này cho phép lượng đường trong máu đi vào tế bào.

Ở những người không mắc bệnh tiểu đường, lượng đường trong máu duy trì ở mức độ thấp suốt cả ngày. Tuy nhiên, đối với những người mắc bệnh tiểu đường, hệ thống này không hoạt động theo cách tương tự. Đây là một vấn đề lớn vì lượng đường trong máu quá cao và quá thấp đều có thể gây ra tác hại nghiêm trọng.

Có một số loại bệnh tiểu đường, nhưng hai loại phổ biến nhất là loại 1 và loại 2. Cả hai tình trạng này đều có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi.

Với bệnh tiểu đường loại 1, quá trình tự miễn dịch sẽ phá hủy các tế bào beta sản xuất insulin trong tuyến tụy. Những người mắc bệnh tiểu đường dùng insulin nhiều lần trong ngày để đảm bảo glucose đi vào tế bào và duy trì ở mức khỏe mạnh trong máu .

Với bệnh tiểu đường loại 2, các tế bào beta lúc đầu sản xuất đủ insulin, nhưng các tế bào của cơ thể có khả năng chống lại hoạt động của nó, do đó lượng đường trong máu vẫn ở mức cao. Để bù đắp, tuyến tụy sản xuất nhiều insulin hơn nhằm cố gắng làm giảm lượng đường trong máu.Theo thời gian, các tế bào beta mất khả năng sản xuất đủ insulin.

Trong số ba chất dinh dưỡng đa lượng – protein, carbs và chất béo – carbs có tác động đáng kể nhất đến việc quản lý lượng đường trong máu. Điều này là do cơ thể phân hủy chúng thành glucose.

Vì vậy, những người mắc bệnh tiểu đường có thể cần dùng liều lớn insulin, thuốc hoặc cả hai khi họ ăn nhiều carbohydrate.
Chế độ ăn kiêng rất ít carb có thể giúp kiểm soát bệnh tiểu đường?

Nhiều nghiên cứu ủng hộ chế độ ăn kiêng rất ít carb để điều trị bệnh tiểu đường. Trên thực tế, trước khi phát hiện ra insulin vào năm 1921, chế độ ăn rất ít carb được coi là phương pháp điều trị tiêu chuẩn cho người mắc bệnh tiểu đường.

Ngoài ra, chế độ ăn kiêng low carb dường như có hiệu quả lâu dài khi mọi người tuân theo chúng một cách nhất quán.

Nhiều người cảm thấy khó khăn khi tuân thủ chế độ ăn kiêng low-carb lâu dài vì đây không phải là một hình thức ăn uống bền vững. Một số nghiên cứu gần đây thảo luận về vấn đề này và chúng ta cần nhiều nghiên cứu hơn để hiểu tác động lâu dài của chế độ ăn ít carb.

Trong một nghiên cứu, những người mắc bệnh tiểu đường loại 2 đã ăn chế độ ăn ít carb trong 6 tháng. Bệnh tiểu đường của họ vẫn được kiểm soát tốt hơn 3 năm sau nếu họ kiên trì tuân thủ chế độ ăn kiêng.

Tương tự, khi những người mắc bệnh tiểu đường loại 1 tuân theo chế độ ăn kiêng hạn chế carb, 48% những người tuân theo chế độ ăn kiêng này đã thấy lượng đường trong máu được cải thiện đáng kể trong khoảng thời gian 4 năm.

Lượng carb tối ưu cho người mắc bệnh tiểu đường là bao nhiêu?

Lượng carb lý tưởng cho những người mắc bệnh tiểu đường là một chủ đề gây tranh cãi, ngay cả trong số những người ủng hộ việc hạn chế carb.

Một số nghiên cứu cũ hơn đã tìm thấy sự cải thiện đáng kể về lượng đường trong máu, trọng lượng cơ thể và các dấu hiệu khác khi lượng carb bị hạn chế ở mức 20 gam mỗi ngày.

Tiến sĩ Richard K. Bernstein, người mắc bệnh tiểu đường loại 1, đã ăn 30 gam carbs mỗi ngày và ghi nhận khả năng kiểm soát lượng đường trong máu tuyệt vời ở những bệnh nhân tuân theo chế độ tương tự.

Tuy nhiên, nghiên cứu khác cho thấy rằng nếu chế độ ăn kiêng rất ít carb quá hạn chế, thì chế độ ăn ít carb, chẳng hạn như 70–90 gam tổng lượng carbs, hoặc 20% lượng calo từ carbs, cũng có hiệu quả.

Lượng carbs lý tưởng cũng có thể khác nhau tùy theo từng người vì mỗi người đều có phản ứng riêng với carbs và nhu cầu carb được xác định theo độ tuổi, cân nặng, chiều cao, giới tính và mức độ hoạt động.

Theo Hiệp hội Tiểu đường Hoa Kỳ (ADA), không có chế độ ăn kiêng nào phù hợp cho tất cả mọi người mắc bệnh tiểu đường. Kế hoạch bữa ăn được cá nhân hóa, xem xét sở thích ăn kiêng và mục tiêu trao đổi chất của bạn là tốt nhất.

ADA cũng khuyến nghị mọi người nên làm việc với nhóm chăm sóc sức khỏe của mình để xác định lượng carb thích hợp của họ.

Để tìm ra lượng carbs lý tưởng, bạn có thể đo đường huyết bằng máy đo trước bữa ăn và đo lại 1 đến 2 giờ sau khi ăn.

Theo tiêu chuẩn chăm sóc của ADA, lượng đường huyết mục tiêu trong 2 giờ sau bữa ăn là dưới 180 mg/dL. Lượng đường trong máu cao liên tục (trên 180 mg/dL) trong thời gian dài dẫn đến các biến chứng như tổn thương thần kinh hoặc thận.

Tất cả phụ thuộc vào khả năng chịu đựng của bạn và sự cân bằng dinh dưỡng đa lượng trong bữa ăn của bạn. Chỉ cần nhớ rằng việc kết hợp carbs với protein và chất béo sẽ làm chậm quá trình hấp thụ glucose, làm chậm quá trình tăng lượng đường trong máu. Và, thay vì loại bỏ tất cả carbs, chế độ ăn ít carb lành mạnh nên bao gồm các nguồn carb giàu chất xơ, giàu chất dinh dưỡng, như rau, quả mọng, quả hạch và hạt.

Những loại carbs nào làm tăng lượng đường trong máu?

Trong thực phẩm thực vật, carbs bao gồm sự kết hợp của tinh bột, đường và chất xơ. Chỉ có thành phần tinh bột và đường mới làm tăng lượng đường trong máu. Chất xơ được tìm thấy tự nhiên trong thực phẩm, dù hòa tan hay không hòa tan, đều không phân hủy thành glucose trong cơ thể và không làm tăng lượng đường trong máu.

Bạn có thể trừ đi lượng chất xơ và đường trong tổng hàm lượng carb, để lại cho bạn hàm lượng carb “thuần” hoặc dễ tiêu hóa. Ví dụ, 1 cốc súp lơ chứa 5 gam carbs, trong đó có 3 gam là chất xơ. Vì vậy, hàm lượng carb ròng của nó là 2 gam.

Chất xơ prebiotic, chẳng hạn như inulin, thậm chí còn được chứng minh là cải thiện lượng đường trong máu lúc đói và các dấu hiệu sức khỏe khác ở những người mắc bệnh tiểu đường loại 2.

Rượu đường, chẳng hạn như maltitol, xylitol, erythritol và sorbitol, thường được sử dụng để làm ngọt kẹo không đường và các sản phẩm “ăn kiêng” khác.Một số trong số chúng, đặc biệt là maltitol, có thể làm tăng lượng đường trong máu ở những người mắc bệnh tiểu đường.

Vì lý do này, hãy thận trọng khi sử dụng công cụ net carb - số lượng ghi trên nhãn sản phẩm có thể không chính xác nếu tất cả lượng carbs do maltitol đóng góp đều bị trừ vào tổng số.

Hơn nữa, Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm (FDA) hoặc ADA không sử dụng công cụ net carb. Trên thực tế, ADA khuyến nghị rõ ràng không nên sử dụng lượng carb ròng để tính lượng carb nạp vào nhằm quản lý lượng đường trong máu.

Bộ đếm carb này có thể là một nguồn tài nguyên có giá trị. Nó cung cấp dữ liệu về tổng lượng carbs, lượng carb ròng, chất xơ, protein và chất béo cho hàng trăm loại thực phẩm.


Thực phẩm nên ăn và thực phẩm cần hạn chế

Tốt nhất bạn nên tập trung vào việc ăn ít carb, thực phẩm nguyên chất và nhiều chất dinh dưỡng. Điều cần thiết là phải chú ý đến các tín hiệu đói và no của cơ thể, bất kể bạn đang ăn gì.

Thực phẩm nên ăn

Bạn có thể ăn những thực phẩm ít carb sau đây cho đến khi no. Ngoài ra, hãy đảm bảo cung cấp đủ protein trong mỗi bữa ăn:

Thịt, gia cầm và hải sản
Trứng
Phô mai
Rau không chứa tinh bột (hầu hết các loại rau trừ những loại được liệt kê dưới đây)
Bo
Quả ô liu
Dầu ô liu, dầu dừa, bơ, kem, kem chua và phô mai kem

Thực phẩm nên ăn điều độ

Bạn có thể ăn những thực phẩm sau với số lượng ít hơn trong bữa ăn, tùy thuộc vào khả năng dung nạp carb của cá nhân bạn:

Quả mọng: 1 cốc hoặc ít hơn
Sữa chua Hy Lạp nguyên chất: 1 cốc hoặc ít hơn
Phô mai tươi: 1/2 cốc hoặc ít hơn
Các loại hạt và đậu phộng: 1–2 ounce, hoặc 30–60 gam
Sữa: 1 cốc hoặc ít hơn
Trái cây trừ quả mọng, 1/2 cốc hoặc ít hơn
Hạt lanh hoặc hạt chia: 2 thìa
Sô cô la đen (ít nhất 85% ca cao): 30 gram hoặc ít hơn
Bí trắng (hạt bơ, quả trứng cá, bí ngô, mì spaghetti và hubbard): 1 cốc hoặc ít hơn
Rượu: 1,5 ounce, hoặc 45 mL
Rượu vang đỏ hoặc trắng khô: 4 ounce hoặc 120 mL
Các loại đậu, chẳng hạn như đậu Hà Lan, đậu lăng và đậu, là nguồn protein lành mạnh, mặc dù chúng cũng có chứa carbs. Hãy chắc chắn bao gồm chúng trong số lượng carb hàng ngày của bạn.

Giảm đáng kể lượng carb thường làm giảm lượng insulin, khiến thận giải phóng natri và nước.

Cố gắng ăn một chén nước dùng, một vài quả ô liu hoặc một số thực phẩm mặn, ít carb khác để bù đắp lượng natri đã mất. Trong trường hợp này, thêm một chút muối vào bữa ăn là phù hợp. Tuy nhiên, hãy hạn chế lượng natri tiêu thụ hàng ngày không quá 2.300 miligam (mg) để đảm bảo sức khỏe tổng thể.

Tuy nhiên, nếu bạn bị suy tim sung huyết, bệnh thận hoặc huyết áp cao, hãy nói chuyện với bác sĩ trước khi tăng lượng natri trong chế độ ăn uống của bạn.

Một bữa ăn rất ít carb cho người mắc bệnh tiểu đường để dùng mẫu cho mỗi ngày Đây là thực đơn mẫu có 15 gram carbs tiêu hóa trở xuống mỗi bữa. Nếu khả năng dung nạp carb cá nhân của bạn cao hơn hoặc thấp hơn, bạn có thể điều chỉnh khẩu phần ăn.

Bữa sáng: Trứng và rau bina
3 quả trứng nấu trong bơ (1,5 gam carbs)
1 chén rau bina xào (3 gram carbs)
Bạn có thể kết hợp trứng và rau bina với:

1 cốc quả mâm xôi (6 gram carbs)
1 tách cà phê với kem và chất làm ngọt không đường tùy chọn
Tổng lượng carbs tiêu hóa: 10,5 gram

Bữa trưa: Salad Cobb
3 ounce (90 gram) thịt gà nấu chín
1 ounce (30 gam) phô mai Roquefort (1/2 gam carbs)
1 lát thịt xông khói
1/2 quả bơ vừa (2 gam carbs)
1 cốc cà chua xắt nhỏ (5 gram carbs)
1 chén rau diếp thái nhỏ (1 gram carbs)
dầu ô liu và giấm
Bạn có thể kết hợp món salad của mình với:

20 gram (2 ô vuông nhỏ) sô cô la đen 85% (4 gram carbs)
1 ly trà đá có đường tùy chọn
Tổng lượng carbs tiêu hóa: 12,5 gram.

Bữa tối: Cá hồi với rau
4 ounce cá hồi nướng
1/2 chén bí xanh xào (3 gam carbs)
1 chén nấm xào (2 gram carbs)
Để bổ sung cho bữa ăn của bạn và cho món tráng miệng:

4 ounce (120 g) rượu vang đỏ (3 gam carbs)
1/2 cốc dâu tây cắt lát với 1 thìa kem tươi không đường (5 gam carbs)
1 ounce quả óc chó cắt nhỏ (6 gam carbs)
Tổng lượng carbs tiêu hóa: 19 gram

Tổng lượng carb tiêu hóa trong ngày: 42 gram
Để biết thêm ý tưởng, đây là danh sách bảy bữa ăn ít carb nhanh chóng và danh sách 101 công thức nấu ăn ít carb lành mạnh.
Nếu bạn duy trì ăn uống theo mẫu trên có thể giảm lượng đường trong máu.Vì lý do này, bác sĩ thường sẽ giảm liều lượng insulin và các loại thuốc khác. Trong một số trường hợp, họ có thể loại bỏ hoàn toàn thuốc của bạn.

Một nghiên cứu báo cáo rằng 17 trong số 21 người tham gia nghiên cứu mắc bệnh tiểu đường loại 2 có thể ngừng hoặc giảm thuốc trị tiểu đường khi lượng carb bị giới hạn ở mức 20 gram mỗi ngày.

Trong một nghiên cứu khác, những người tham gia mắc bệnh tiểu đường loại 1 ăn 25-75 g carbs mỗi ngày trong 12 tuần và nhận thấy việc quản lý lượng đường trong máu được cải thiện và giảm sử dụng insulin. Không có thay đổi nào về lượng đường trong máu thấp hoặc tác dụng phụ được báo cáo.

Nếu insulin và các loại thuốc khác không được điều chỉnh cho phù hợp với chế độ ăn ít carb thì sẽ có nguy cơ cao bị mức đường huyết thấp đến mức nguy hiểm, còn được gọi là hạ đường huyết.

Vì vậy, điều quan trọng là những người dùng insulin hoặc các loại thuốc trị tiểu đường khác phải nói chuyện với bác sĩ trước khi bắt đầu chế độ ăn ít carb.

Những cách khác để giảm lượng đường trong máu

Ngoài việc tuân theo chế độ ăn ít carb, hoạt động thể chất cũng có thể giúp kiểm soát bệnh tiểu đường bằng cách cải thiện độ nhạy insulin. Sự kết hợp giữa rèn luyện sức đề kháng và tập thể dục nhịp điệu đặc biệt có lợi, nhất là đi bộ 20 phút mỗi ngày.

Giấc ngủ chất lượng cũng rất quan trọng. Nghiên cứu đã liên tục chỉ ra rằng những người không ngủ đủ giấc sẽ có nguy cơ mắc bệnh tiểu đường cao hơn.

Một nghiên cứu quan sát gần đây cho thấy những người mắc bệnh tiểu đường ngủ ít hơn 6 giờ hoặc hơn 8 giờ mỗi đêm có khả năng quản lý đường huyết kém hơn những người ngủ từ 6 đến 8 giờ.

Một chìa khóa khác để quản lý tốt lượng đường trong máu là quản lý căng thẳng của bạn. Yoga, khí công và thiền đã được chứng minh là làm giảm lượng đường trong máu và insulin.

Điểm mấu chốt

Các nghiên cứu cho thấy chế độ ăn ít carb có thể kiểm soát hiệu quả bệnh tiểu đường loại 1 và loại 2.

Chế độ ăn ít carb có thể cải thiện việc quản lý lượng đường trong máu, giảm nhu cầu dùng thuốc và giảm nguy cơ biến chứng tiểu đường.

Thiên lan dịch from the healthy life

Biết Trách Ai Đây?

 Khi đọc xong bài viết “Biết Trách Ai Đây?” của sư Toại Khanh là một tùy bút đậm chất suy tư, chất chứa nỗi niềm trước cảnh đời éo le, những...