Thứ Ba, 30 tháng 4, 2024

Trí tuệ cảm xúc được đánh giá như thế nào?


Trí tuệ cảm xúc đề cập đến khả năng xác định và quản lý cảm xúc của chính mình cũng như cảm xúc của người khác. Trí tuệ cảm xúc thường được cho là bao gồm một số kỹ năng: cụ thể là nhận thức về cảm xúc hoặc khả năng xác định và gọi tên cảm xúc của chính mình; khả năng khai thác những cảm xúc đó và áp dụng chúng vào các nhiệm vụ như tư duy và giải quyết vấn đề; và khả năng quản lý cảm xúc, bao gồm cả việc điều chỉnh cảm xúc của chính mình khi cần thiết và giúp đỡ người khác làm điều tương tự.

Nội dung bài viết bao gồm :

Cội nguồn của trí tuệ cảm xúc

Làm thế nào để trau dồi trí tuệ cảm xúc

Cội nguồn của trí tuệ cảm xúc

Lý thuyết về trí tuệ cảm xúc được Peter Salovey và John D. Mayer giới thiệu vào những năm 1990, sau đó được Daniel Goleman phát triển và phổ biến rộng rãi hơn cho công chúng. Khái niệm này, còn được gọi là chỉ số cảm xúc hay EQ, đã được chấp nhận rộng rãi. Tuy nhiên, một số nhà tâm lý học cho rằng vì EQ không thể được nắm bắt thông qua các bài kiểm tra tâm lý (chẳng hạn như trí thông minh tổng quát) nên nó thiếu khả năng giải thích thực sự.

Một người thông minh về mặt cảm xúc có khả năng tự nhận thức như thế nào?

Nguời thông minh về mặt cảm xúc có ý thức cao về trạng thái cảm xúc của chính họ, thậm chí cả những trạng thái tiêu cực - từ thất vọng hay buồn bã đến điều gì đó tinh tế hơn. Họ có thể xác định và hiểu những gì họ đang cảm thấy và việc có thể gọi tên một cảm xúc sẽ giúp quản lý cảm xúc đó. Vì điều này, người có trí tuệ cảm xúc cao có sự tự tin cao và thực tế về bản thân.

Những người có trí tuệ cảm xúc có khả năng tự điều chỉnh tốt hơn không?

Người có EQ cao không bốc đồng hay vội vàng trong hành động. Họ suy nghĩ trước khi làm. Điều này chuyển thành khả năng điều tiết cảm xúc ổn định hoặc khả năng giảm bớt cảm xúc mãnh liệt. Giảm sự tức giận hoặc lo lắng xuống một mức được gọi là giảm quy định. Người thông minh về mặt cảm xúc có thể chuyển đổi tần số và làm dịu tâm trạng, cả bên trong lẫn bên ngoài.

Người có trí tuệ cảm xúc có điều chỉnh được cảm xúc của người khác không?

Những người như vậy đặc biệt nhạy cảm với những cảm xúc mà người khác trải qua. Có thể hiểu rằng sự nhạy cảm với các tín hiệu cảm xúc từ bên trong bản thân và từ môi trường xã hội của một người có thể khiến một người trở thành một người bạn, cha mẹ, người lãnh đạo hoặc đối tác lãng mạn tốt hơn. Hòa hợp với người khác sẽ ít tốn công sức cho người khác hơn.

Những người thông minh về mặt cảm xúc có đồng cảm hơn không?

Người này có thể nhận biết và hiểu được cảm xúc của người khác, một kỹ năng gắn liền với sự đồng cảm. Người có EQ cao có thể nghe và hiểu rõ quan điểm của người khác. Người đồng cảm thường ủng hộ mọi người trong cuộc sống của họ và họ cũng dễ dàng điều chỉnh cảm xúc của mình để phù hợp với tâm trạng của người khác.

Trí tuệ cảm xúc có phải là một cấu trúc được công nhận?

Đây là một chủ đề tranh luận tích cực trong lĩnh vực này. Một số nhà tâm lý học nhân cách cho rằng trí tuệ cảm xúc có thể được mô tả một cách chi tiết hơn bằng những đặc điểm như tính dễ chịu và thậm chí là sức thu hút. Ví dụ, một người có sức thu hút cao là người rất giỏi về mặt xã hội và có thể nhanh chóng đọc được tình hình.

Làm thế nào để trau dồi trí tuệ cảm xúc

Chúng ta bị thu hút một cách tự nhiên bởi một người có EQ cao. Chúng ta cảm thấy thoải mái và dễ chịu với mối quan hệ dễ dàng của họ. Có cảm giác như thể họ có thể đọc được các tín hiệu xã hội bằng khả năng siêu phàm. Có lẽ họ thậm chí có thể đọc được suy nghĩ của người khác ở một mức độ nào đó. Sự dễ dàng này được hoan nghênh trong mọi lĩnh vực của cuộc sống - ở nhà, trong môi trường xã hội và tại nơi làm việc. Ai lại không muốn một ông chủ hiểu được cảm giác của bạn và những gì bạn đang cố gắng hoàn thành?

Tôi có thể học để trở nên thông minh hơn về mặt cảm xúc không?

Vâng, bạn có thể. Bạn có thể bắt đầu bằng cách học cách xác định những cảm xúc mà bạn đang cảm nhận cũng như hiểu được chúng. Nếu bạn có thể gọi tên cảm xúc mà bạn đang cảm thấy, bạn sẽ có cơ hội hiểu rõ hơn về cảm giác của mình. Bạn cũng có thể học cách điều chỉnh cảm xúc của mình tốt hơn chỉ bằng cách dừng lại và suy nghĩ trước khi hành động và phán xét. Những kỹ năng này sẽ giúp bạn rèn luyện được sự quyết tâm bên trong và bám sát những gì thực sự quan trọng trong cuộc sống.

Những người có trí tuệ cảm xúc cao hơn ở nơi làm việc?

Trong khi một số nghiên cứu đã tìm thấy mối liên hệ giữa trí tuệ cảm xúc và hiệu suất công việc, nhiều nghiên cứu khác lại không cho thấy mối tương quan nào và việc thiếu thang đo có giá trị về mặt khoa học khiến việc đo lường hoặc dự đoán trực giác về mặt cảm xúc của một người trở nên khó khăn trong công việc hoặc trong công việc. các lĩnh vực khác của cuộc sống.

Những người thông minh về mặt cảm xúc có động lực hơn không?

Những người này có thể huy động và sử dụng cảm xúc của mình, đồng thời họ có động lực để quản lý các nhiệm vụ và giải quyết vấn đề trở ngại. Họ được kết nối với việc họ là ai và họ coi trọng điều gì trong cuộc sống, đây là nền tảng để sắp xếp thứ tự ưu tiên và đạt được bất kỳ mục tiêu hoặc mục đích nào. Biết những gì quan trọng là rất quan trọng cho năng suất.

Bạn có thể kiểm tra trí tuệ cảm xúc ở nơi làm việc không?

Trong những năm gần đây, một số nhà tuyển dụng đã kết hợp các bài kiểm tra trí tuệ cảm xúc vào quá trình ứng tuyển và phỏng vấn của họ, dựa trên lý thuyết rằng ai đó có trí tuệ cảm xúc cao sẽ trở thành một nhà lãnh đạo hoặc đồng nghiệp tốt hơn. Tuy nhiên, vẫn chưa rõ liệu những biện pháp này có chính xác hay thậm chí hữu ích hay không.

Trí tuệ cảm xúc có thể đo lường được không?

Ví dụ, việc kiểm tra EQ ở nơi làm việc rất khó khăn vì không có bài kiểm tra tâm lý hoặc thước đo tâm lý nào được xác thực cho trí tuệ cảm xúc như đối với yếu tố trí tuệ chung - và nhiều người cho rằng trí tuệ cảm xúc do đó không phải là một cấu trúc thực sự mà là một cách để đánh giá. mô tả các kỹ năng giao tiếp.


Bài viết đăng trên the spychology today và được đánh giá bởi nhân viên Tâm lý Hoc.

Thiên Lan phỏng dịch


++ Trí tuệ cảm xúc nếu hiểu theo đạo Phật thì chính là khuyến khích chúng ta nên phát triển tư duy nội tâm. Làm cho tâm tỉnh lặng bằng cách quay vào bên trong, ngồi thiền khi có thể và luyện tập lắng nghe nhiều hơn. 

Thứ Hai, 29 tháng 4, 2024

Chân lý của ăn chay, Lễ bái đúc tượng cúng chùa

 Bồ đề đạt ma là một là một vị thiền sư chính tông của Phật Giáo đã giải thích rỏ ràng chân lý của việc chúng ta ăn chay, cúng chùa lễ bái và đúc tượng. Những việc làm này thoạt nhìn có vẻ rất nhiều công đức thông qua các buổi thuyết giảng của các vị tăng ni đương thời. Nhưng sự thật thì như thế nào, những việc làm này có thật sự mang lại nhiều công đức như các lời thuyết giảng hay không? hay là hầu hết chúng ta đang bị lầm lạc chân lý trong sự vô minh của sự dẫn dắt của các vị tăng ni đương thời.

Trứoc khi Đức Phật nhập niết bàn, ngài đã cảnh báo rằng thời kỳ tận mạt của Phật giáo sẽ xảy ra. Vậy cho nên ngày nay việc sư mặc giả áo ca sa, ma quỷ đội lốt thầy tu để phá hòng Phật Pháp hỏng dẫn dắt chúng sinh đi vào con đừong tà đạo là điều hoàn toàn có thể xảy ra.

Qua bài viết này tôi hy vọng chúng ta sẽ cúng nhau chiêm nghiệm chân lý và ý nghĩa của việc ăn chay, lễ phật , cúng chùa, chép kinh , đúc vẽ hình tượng và độ tăng v..v. qua sự giảng dạy của Bồ Đề đạt ma để chúng ta có thể sáng tỏ vấn đề này một cách thấu đáo trong thời kỳ Phật Giáo đang suy đồi này.- 

1- Chân lý của việc xây cất chùa. Đây chỉ là phương tiện nếu chúng sanh bám vào phương tiện chỉ chạy ra ngoài mà cầu được công đức thì rất vô lý. Chùa là nơi thanh tịnh nếu xây chùa mà ta dứt được ba độc( tham sân si), thương tịnh 6 căn(mắt, tai mũi lưỡi thân ý, thân tâm rỗng lăng. TRong ngoài thanh tịnh thì đó mới là ý nghĩa thật sự của việc xây cất chùa.

2- Chân lý của việc đúc vẽ hình tượng. Điều này cho thấy chúng sanh mong cầu đạo quả tu tập vẽ chân dung Như Lai để vọng hướng về ngài.Đúc tượng Phật không nhất thiết phải là vật chất to lớn hay tốn kém; thực chất, nó là biểu hiện của lòng thành kính và mong muốn hướng về chân lý tâm linh. Đức Phật dạy rằng, chân lý không nằm ở hình thức bên ngoài mà ở trí tuệ và sự hiểu biết sâu sắc về giáo lý. Như vậy, việc đúc tượng Phật nên được hiểu là một quá trình tu tập nội tâm, nơi mỗi người tự mình khám phá và thể hiện phật tánh chân thực của bản thân. Đây là một thông điệp mạnh mẽ về việc tìm kiếm và thực hành chân lý trong đạo Phật, không phụ thuộc vào điều kiện vật chất. Ngày nay chúng sanh theo cách nhìn hữu vi là vật chất mà các tượng phải to lớn và tốn rất nhiều tiền mà ai càng cúng nhiều tượng lớn , to đẹp là công đức càng lớn thì thật là vô lý. Bởi vì người nghèo làm sao có tiền để đúc các tượng Phặt to đẹp được. Cho nên người tu phải hiểu ý nghĩa lấy thân làm lọ đốt, lấy pháp làm lửa nóng lấy trí huệ làm thợ khéo,để tự mình đúc lấy phật tánh chân như trong tự thân. Nên khi đúc tượng mà chỉ nghĩ theo vật chất thì không hợp đạo lý.

3-Chân lý của việc thắp hương. Ý nghĩa này là dùng hương chánh pháp vô vi để xáo đi các nghiệp ác vô minh. Hương chánh pháp có 5 thứ :

++Huơng giới là từ bỏ các ác tu tập điều thiện

++Hương định là tin sâu Phật Pháp tâm không dao động

++Hương huệ là thường quan sát mình và trở vào trong tâm

++Hương giải thoát khi đốt hứong là vất đi hết cả vô minh trói buộc

++Hương giải thoát tri kiến là thông suốt mọi việc là xét soi thường tỏ không có định kiến trong đầu.

Năm thứ hương này là tối thượng mà thế gian không sánh được. Chúng sanh khong  dùng lữa trí huệ đốt thứ hương vô giá này để cúng dường chư Phật. Chúng sanh ngày nay chỉ dùng hương và lữa vật chất thế gian mà đốt thì làm sao mà có được phước báu.

4- Chân lý của việc cúng hoa. Hoa ở đây là hoa trong chánh pháp và nên dùng để giảng dạy lợi ích chúng sanh để thấm nhuần chân như phật pháp.Thứ hoa công đức này sẽ không héo tàn. Ngày nay các tăng ni dùng ý nghĩa này để chúng sanh dâng hoa cúng Phật với tâm ý khác đi thì không đúng với lời dạy của Như Lai "hoa là chánh Pháp và mỗi lời Như Lai thốt như là phun hoa nhả ngọc". Như Lai không khuyến khích phải cắt hoa tươi làm tổn hại đến thảo mộc. Bởi vì người có tâm tu thì mọi vật trong trời đất đều có tính linh nên không được sát hại. Tổn thương vạn vật để cầu phước báu thì không hợp lý.

5-Chân lý của việc luôn đốt đèn sáng . Đây là ý nói cái tâm chánh giác tỏ suốt ví như là ngọn đèn luôn sáng.Cho nên ai muốn cầu giải thoát thì lấy tâm là tịm, các giới hạnh là dầu và trí huệ là lửa. Thường thắp đèn chánh giác thì soi rọi các vô minh ngu tối. Cứ mỗi ngọn đèn làm mồi ra hàng trăm ngọn đèn khác và cư thế là khai thị cho nhau

6- Chân lý của sáu thời hành đạo. Nghĩa là 6 căn luôn thực hành phật đạo, tu các hạnh giác. Điều phục căn mãi mái không hờ. Trong đạo phật luôn nói về tháp bảo chữ Tháp đây ám chĩ thân tâm của tạ.Trong tâm linh Phật giáo, "Chân lý của sáu thời hành đạo" là một khái niệm quan trọng, nói về việc thực hành sáu thời trong ngày để tu tập. Điều này liên quan đến việc rèn luyện sáu căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) theo đạo Phật. Thiền sư Thích Nhất Hạnh, một hình tượng của lòng từ bi và sự tỉnh thức, đã để lại di sản tinh thần quý báu cho thế giới. Ngài đã chọn không xây dựng bảo tháp để chứa tro cốt sau khi viên tịch, mà thay vào đó, tro cốt của ngài được rải rác khắp các thiền viện, như một lời nhắc nhở về sự liên kết giữa thân tâm và pháp thân .

7- Chân lý của việc ăn chay.Nếu không hiểu đạo lý của việc ăn chay thì chỉ thêm vô ích mà thôi. Chữ chay ở chữ Hán là chữ trai còn có nghĩa là bình. Cho nên ăn chay để bình thân tâm và gián tiếp không còn sát sanh hại vật nữa. Còn chữ ăn ỏ đây có nghĩa là giữ(giữ các giới của đạo Phật). Biết rỏ nghĩa này khi ăn chay thì mới có công đức.Ăn chay không chỉ là một lựa chọn về thực đơn, mà còn là một phong cách sống, một biểu hiện của lòng từ bi và sự tự giác trong việc bảo vệ sinh mạng. Theo truyền thống Phật giáo, ăn chay giúp giảm bớt sát sinh và tạo nên sự hòa bình cho tâm hồn, đồng thời giữ gìn các giới luật của đạo. 


Nói tóm lại khi tu tập là tu tâm và nhất nhất những điều chúng ta làm là từ trong tâm mà thề nguyện.Tu tâm, hay việc rèn luyện và hoàn thiện tâm hồn, là một hành trình tinh thần quan trọng trong nhiều truyền thống tâm linh. Nó đòi hỏi sự chân thành và kiên trì, với mục tiêu không chỉ là sự an lạc trong hiện tại mà còn là sự giải thoát và thanh tịnh vĩnh viễn. Tránh xa ba độc của lòng tham, sân hận và si mê, và thực hành đạo đức, là những bước đi cơ bản trên con đường tu tâm, giúp chúng ta tiến gần hơn đến sự tỉnh thức và giác ngộ Nguyện tu để vãng sanh không phải để được phước báu mà an hưởng trong đời sau. 



Chủ Nhật, 28 tháng 4, 2024

Những hiện tượng của thế giới hôm nay

 "Thiên tai dị tượng sờ sờ, nếu không hối cải đợi chờ nạn to"

Điều này cho thấy những quốc gia vì mất đi đạo đức mới tiến đến diệt vong, Thượng Đế hay còn được gọi là ông trời đang giáng thiên tai dị tượng là để cảnh tỉnh cho con người; còn như nếu không biết hối cải, kiếp nạn bại vong thực sự rất nhanh sẽ đến

Nhất nhân tạo nghiệp, luỵ gia nhân; Quân vương vô Đạo, họa thương sinh” câu này ý nói nếu một người bình thường làm điều xấu, sẽ liên lụy đến cả gia quyến; nhưng nếu thân là người đang có quyền lực là bậc đế vương cai trị ở địa vị cao, nếu như nghịch thiên phản đạo, cuồng vọng bạo đồ, ắt sẽ khiến quốc gia đại họa, dân chúng khốn khổ, sinh linh lầm than. Có thể thấy đang xảy ra ở nước Nga, Trung Quốc và hiện nay chính quyền của Mỹ.


Trong lịch sử nhân loại, thiên tai và các hiện tượng tự nhiên khác luôn là một phần không thể tách rời của cuộc sống. Chúng không chỉ ảnh hưởng đến môi trường và nền kinh tế  của con người mà còn được coi là những dấu hiệu, những thông điệp từ thế giới tự nhiên. Các nền văn minh cổ đại thường gắn kết các sự kiện thiên nhiên này với ý nghĩa tâm linh hoặc đạo đức, như là những lời cảnh tỉnh hoặc hình phạt từ các thực thể siêu nhiên. Trong văn hóa phương Đông, đặc biệt là trong triết lý của nhà Nho, có quan niệm rằng thiên tai là kết quả của sự mất cân bằng trong đạo đức và hành vi của con người. Các học giả như Đổng Trọng Thư đã nghiên cứu mối liên hệ giữa thiên tai và các sự kiện lịch sử, đưa ra nhận định rằng sự suy đồi đạo đức có thể dẫn đến sự diệt vong của một quốc gia.


Trong thời đại hiện đại, mặc dù quan niệm về mối liên hệ giữa thiên tai và đạo đức không còn được chấp nhận rộng rãi như một quy luật, nhưng vẫn có những bài học quý giá từ quá khứ mà chúng ta có thể học hỏi. Các nghiên cứu lịch sử môi trường cho thấy rằng việc hiểu biết và học hỏi từ những thất bại và thành công của nhân loại trong quá khứ có thể giúp chúng ta đối phó tốt hơn với các thách thức môi trường hiện nay. Jared Diamond, một học giả nổi tiếng, đã chỉ ra rằng cách thức mà các xã hội tương tác với môi trường và sử dụng tài nguyên là yếu tố quyết định đến sự thịnh vượng hay suy vong của chúng.


Nhìn vào tình hình hiện tại của thế giới, đặc biệt là tại Trung Quốc, chúng ta thấy rằng các thiên tai như lũ lụt, hạn hán, động đất, và dịch bệnh đang diễn ra với tần suất và cường độ ngày càng cao. Trong khi không thể khẳng định rằng đây là hậu quả trực tiếp của sự suy giảm đạo đức, không thể phủ nhận rằng những sự kiện này là những thách thức lớn đối với xã hội và đòi hỏi sự chú ý, phản ứng nhanh chóng và có trách nhiệm từ cả chính quyền lẫn người dân[4]. Điều quan trọng là mỗi cá nhân và cộng đồng cần phải nhận thức được vai trò của mình trong việc bảo vệ môi trường và duy trì sự cân bằng của hệ sinh thái.

Người xưa đã nói: “Họa và phúc đều không có cửa sẵn mà là do lòng người tự tạo ra. Người không phân tranh, yêu không tự tác“. “Người bất thiện, thiên giáng tai ương“. Bậc thầy nhà Nho triều Hán Đổng Trọng Thư thông qua nghiên cứu mối quan hệ giữa các lần thiên tai trong lịch sử đối ứng cùng các sự vụ nơi thế gian mà rút ra kết luận rằng: “Quốc gia vì mất đi đạo đức mới tiến đến diệt vong, ông Trời giáng thiên tai dị tượng là để cảnh tỉnh cho con người; còn như nếu không biết hối cải, kiếp nạn bại vong thực sự rất nhanh sẽ đến“. 

Nói tóm lại trong bất kỳ xã hội nào, việc nuôi dưỡng và thực hành đạo đức là điều cần thiết để xây dựng một cộng đồng bền vững và hòa bình. Đạo đức không chỉ là một khái niệm tâm linh mà còn là nền tảng cho sự phát triển bền vững, giúp con người đối mặt và vượt qua những khó khăn, thách thức từ thiên nhiên và xã hội. Trong bối cảnh toàn cầu,thế giới với những biến động do chiến tranh và dị tượng khắp nói, việc mỗi người chúng ta tự tu dưỡng và nâng cao nhận thức về môi trường và đạo đức sẽ góp phần tạo nên một thế giới tốt đẹp hơn cho tất cả mọi người. Ông Trời luôn từ bi và sẽ cho con người cơ hội, dù quan chức hay người dân phổ thông, mỗi người đều cần tu dưỡng đạo đức, bởi đó mới là sợi dây chắc chắn nhất gắn kết con người với thượng thiên, bình an vượt qua đại nạn. 

Thứ Bảy, 27 tháng 4, 2024

Tứ Diệu Đế

 Tứ Diệu Đế hay Tứ Thánh Đế (ariya sacca) tức là bốn sự thât rốt ráo về khổ, về nguyên nhân khổ, về diệt khổ, về con đường diệt khổ.

Phạn ngữ sacca có nghĩa là đế, sự thật, chân lý; tức là cái gì thực sự có, là sự thật không thay đổi. Ariya là cao thượng, cao cả, vi diệu. Do vậy, ariyasacca là chân lý cao cả, là sự thật thù thắng, như chân như thật không bị không gian hay thời gian chi phối, biến đổi. Đây là là nền tảng của giáo lý Phật giáo, bao gồm bốn chân lý mà Đức Phật đã thuyết giảng sau khi đạt được giác ngộ dưới cội cây Bồ Đề. Bốn đế là những nguyên lý căn bản giúp hiểu rõ về cuộc sống và con đường giải thoát khổ đau. 

Vậy bốn đế đó là gì?

1. Khổ đế (dukkha sacca): Sự thật về khổ.

2. Tập đế (dukkha samudaya sacca): Sự thât về nguyên nhân khổ.

3. Diệt đế (dukkha nirodha sacca): Sự thật về diệt khổ.

4. Đạo đế (dukkha nirodhamagga sacca): Sự thật về con đường diệt khổ.

Đầu tiên là Khổ đế, nói về sự thật rằng cuộc sống luôn gắn liền với khổ đau. Khổ đau không chỉ là những đau khổ thể xác như bệnh tật, tuổi già, và cái chết, mà còn bao gồm cả những khổ đau tinh thần như sự buồn phiền, lo lắng, và thất vọng.

Tập đế là chân lý thứ hai, chỉ ra nguyên nhân của khổ đau, đó là do tham ái, sân hận, và si mê. Những ham muốn không thể thỏa mãn, sự giận dữ và oán hận, cũng như sự ngu dốt và hiểu lầm, đều là nguồn gốc của sự khổ đau trong cuộc sống.

Diệt đế, chân lý thứ ba, mô tả sự chấm dứt của khổ đau. Đức Phật dạy rằng có thể chấm dứt khổ đau bằng cách loại bỏ những nguyên nhân đã nêu ở Tập đế. Điều này đòi hỏi sự tu tập và hiểu biết sâu sắc về bản thân và thế giới xung quanh.

Đạo đế là chân lý thứ tư, chỉ ra con đường dẫn đến sự chấm dứt khổ đau, đó là Bát Chánh Đạo. Con đường này bao gồm việc tu tập chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, và chánh định. Bằng cách tuân thủ tu tập theo Bát Chánh Đạo, người tu tập có thể phát triển trí tuệ, từ bi, và sự thanh tịnh, từ đó giải thoát khỏi vòng luân hồi của sự sinh tử và đạt được đến cảnh giới niết bàn.

Dầu chư Phật có xuất hiện hay không thì sự khổ ấy vẫn cứ tồn tại, vẫn là cái gì bất di bất dịch từ ngàn xưa đến ngàn sau. Đức Phật không phải là người sáng tạo hoặc khai sinh ra chân lý này. Sự thật ấy là cái có sẵn, đức Phật chỉ là người trực nhận, khám phá, thực chứng chân lý ấy rồi đem ra giảng nói cho chúng sanh. 

Như vậy, Tứ Diệu Đế không chỉ là những nguyên lý triết học, mà còn là bản đồ dẫn đường cho hành trình tâm linh của mỗi người. Đây là  những bước đầu tiên và cũng là những bước quan trọng nhất trên con đường hướng tới sự thấu hiểu và giải thoát, mở ra cánh cửa cho sự an lạc và hạnh phúc thực sự trong cuộc sống. Đây là những giáo lý đã được Đức Phật và các đệ tử của Ngài thuyết giảng và truyền bá rộng rãi, và vẫn còn được học hỏi và tuân theo bởi hàng triệu người Phật tử trên khắp thế giới ngày nay.Qua việc tu tập và áp dụng những nguyên lý này, người Phật tử có thể sống một cuộc sống ý nghĩa hơn, hướng tới sự giác ngộ và giải thoát.



+++Pháp môn Bốn Đế được giải thích rất cặn kẽ qua các trang nhà của Phật PHáp như Thư Viện Hoa sen, Hoa sen Phật, Phật Pháp trong đời sống. Các bạn có thể ghé thăm các trang nhà kể trên để hiểu rõ thêm về Tứ Diệu Đế . Đây chỉ là những hiểu biết của tôi và chỉ muốn chia sẽ sự hiểu biết thô thiển này trên trang nhà của tôi.


Thứ Sáu, 26 tháng 4, 2024

Ánh sáng và bóng tối

Trong giáo lý đạo Phật thuờng hay nhắc đến bốn đế. Khi Đức Phật giác ngộ đây là điều mà ngài thuyết giảng với các đệ tử nhiều nhất. Nhưng qua bài viết này tôi chỉ muốn nhấn mạnh một chút về sự hiểu biết sâu sắc của bốn đế không ngoài hai cặp song sinh "Ánh sáng và bóng tối". 

Cho nên mọi sự sanh tử đều khởi đi từ chỗ này. Từ cái chuyện chúng ta không hiểu được Bốn đế mà nó mới nãy ra vô số vô vàn cái sự cố sự kiện. Chúng ta có thể nói thế này: Tất cả những rắc rối trên thế giới này đều bắt đầu từ bóng tối và tất cả mọi giải pháp đều đi ra từ ánh sáng. Vô minh chính là bóng tối.

Tại sao mọi sự đi ra từ bóng tối? Bởi vì muốn giải quyết chuyện gì thì mình phải phanh phui tận gốc rể xem nó là cái gì. Khi mà mọi sự kiện chưa được phơi bày ra hết thì chuyện không được giải quyết. 

Tôi cho một thí dụ . Khi bạn bị đau răng và đi đến gặp nha sĩ. Để hiểu bệnh đau răng của mình có phải nha sĩ họ phải chụp Xray để họ mới chuẩn đoán cho cái răng của bạn còn cứu được không, tình trạng của cái răng mà đưa đến sự quyết định của nha sĩ là nhổ cái răng hay muốn trám cái răng của bạn. Công việc không phải chỉ dừng ở đây mà nếu một nha sĩ khi họ nhổ rằng thì bạn phải khai tổng thể về sức khỏe của bạn, thì phẩu thuật mới có thể tiến hành được. 

Tại sao mà khi bạn đi vào trong phòng mạch khám bệnh mà bạn phải điền phải khai là mình dị ứng với thuốc gì, mình đã qua mổ xẻ gì chưa, mình bao nhiêu tuổi rồi ...Tại sao vậy? Vì tối thiểu dầu đó là bác sĩ gia đình, thì chuyện đầu tiên trước khi bắt tay vào chữa mình thì họ phải biết đại khái về mình. Cái đó gọi là ánh sáng, không có ánh sáng thì vấn đề không bao giờ được giải quyết.

Cái khổ nhất là một ngày nào đó ta đau mà không biết tại sao ta đau. Nhưng mà chỉ cần  bác sĩ cho ta biết lý do tại sao ta đau và phương án giải quyết là ta hết cảm giác lo âu. Ở những thí dụ này bạn sẽ hiểu được trước khi bạn hiểu được lý do thì bạn đang nằm trong bóng tối và khi bác sĩ họ soi rọi xét nghiệm xong, chuyện đầu tiên là bác sĩ  cho bạn thuốc uống là bạn hết đau. Điều thứ hai khi bác sẽ cho  biết lý do đau là từ cái gì thì bạn sẽ hết lo. Trước khi hết đau là bạn đã hết lo rồi. Mà có phải hai điều đó đi lên từ ánh sáng không? Ánh sáng có nghĩa là rõ ràng, là minh bạch. Khi mà còn có một góc tối chưa được giải quyết là còn có vấn đề. 

Đó là lý do vì sao mà ta phải tu tập Tứ Niệm Xứ. Ta tu tập Tứ Niệm Xứ để ta có thể tỉnh thức trong từng phút, dầu ta chưa chứng đắc gì hết nhưng mà thường xuyên chúng ta sống trong ánh sáng. Chỉ có sống với chánh niệm và trí tuệ chúng ta mới biết cái cơ cấu của thân và tâm này nó được cấu tạo bởi 'What' (cái gì) và nó đang hoạt động 'How' (như thế nào). Ngay bây giờ dầu chưa chứng thánh nhưng mà thường xuyên sống với nhận thức về 'What' và 'How' thì chắc chắn có khác so với người không có tu.

Tất cả những vấn đề của nhân loại đều bất đầu từ cái chỗ là họ không biết là họ đang làm gì, họ không biết cái gì nó đang xảy ra trong cái đầu họ. Từ chuyện mà đặt bom tự sát, khủng bố, hại người,  bạo lực bạo hành gia đình, trộm cướp, thù oán, ... tất thảy các tội ác đều bắt đầu từ cái bóng tối của tâm thức. Con người không biết rõ cái gì đang xảy ra. Nhưng nếu mọi người thực tập chánh niệm để có thể từ "bóng tối mà đi ra ánh sáng" thì thế giới sẽ không hổn loạn như ngày nay.

Trong truyện thiền có một câu chuyện về một anh chàng ăn trộm đến hỏi thiền sư để được cải tà quy chánh.

Anh trộm nói rằng: "Con tình cờ  biết được Phật pháp qua một cái hoàn cảnh rất là lạ. Con tính trộm đồ trong chùa này vì con là ăn trộm chuyên nghiệp. Nhưng mà trong lúc rình để có cơ hội thì con nghe các thầy nói Pháp với nhau cho nên con quyết định bỏ nghề. Nhưng mà con thưa thiệt với thầy bỏ nghề trộm con không biết sống bằng cái gì. Nếu bây giờ con đi bán vé số ... thì cũng được nhưng mà bán vé số không phải nghề của con. Xin thầy dạy con cách nào mà con bỏ được cái máu ăn trộm, chứ bây giờ con mà đi ngang chỗ nào mà con thấy có thể ra tay được là con không có dằn lòng được."

Vị thiền sư trả lời: "Bây giờ có cách này. Đúng ra ăn trộm không phải chuyện xấu. Cái quan trọng là con có ăn trộm bằng chánh niệm hay không thôi. Làm cái gì biết cái nấy."

Anh ăn trộm nghe vậy mới nói: "Ủa, ăn trộm cũng chánh niệm là sao thầy?"

Thiền sư giải thích tiếp: "Khi con muốn trộm cái gì là con biết rất rõ là con đang muốn làm bậy, sắp làm chuyện bậy thì biết rất rõ là con đang sắp làm chuyện tầm bậy, biết rất rõ là con đang thực hiện từng bước chân vào tù, đang thực hiện từng bước chân đi vào bóng tối. Con biết rất rõ như vậy thì tha hồ con trộm."

Anh trộm thở phào: "Có lý vậy ta. Vậy là con vẫn làm nghề ăn trộm được."

Thiền sư nói: "Được chứ, miễn là con làm đúng như vậy thôi. Con luôn luôn nhớ, nhớ rõ là con đang từng bước đi vào tù, từng bước đang đi vào bóng tối của cuộc đời, từng bước đang đi vào đáy sâu của xã hội, con chỉ nhớ bấy nhiêu đó thôi, con muốn ăn trộm thì cứ ăn trộm thoải mái thầy không có cản."

Mấy ngày sau khi anh trộm bắt đầu  mặc bộ đồ đen, đeo cái túi vải tính nhảy qua tường thì anh lại thực tập chánh niệm như lời thiền sư noi. Lúc này anh niệm từng câu vị thiền sư nói với anh: "... ta từng bước vào tù, ta đang lọt vào tầm ngắm của cảnh sát, ta đang từng bước..." Và anh trộm cứ ngồi nhớ như vậy là anh trộm đã phải nhảy trở lui liền. Anh ta thử làm vài lần không được nên chạy vào chùa kiếm vị thiền sư.

Ạnh trộm nói: "Không thể nào bằng chánh niệm mà con làm cái chuyện đó được." 

Thiền sư mới nhẹ nhàng trả lời: "Nếu ngay từ hồi đầu mà ta nói với con như vậy thì con không tin, vì lúc đó con nghĩ tại thầy chùa hay dạy ba cái đạo lý gì mệt lắm, nên ta cứ cho con thực nghiệm mới thấy cái tác dụng của chánh niệm nó lớn tới mức nào."

Có nhiều chuyện trên cuộc đời chúng ta luôn bị sống trong bóng tối nhưng chỉ cần thực hành chánh niệm thì chắc chắn cuộc sống của chúng ta luôn là ánh sáng mà đạo Phật gọi là tỉnh thức.


Phỏng theo pháp thoại sư Toại Khanh

Thứ Năm, 25 tháng 4, 2024

Khai Mở Trí Tuệ: Hành Trình Tìm Kiếm Cân Bằng và Sự Tự Do


Trong cuộc sống đầy biến động và thách thức, việc tìm kiếm sự cân bằng giữa thực tại và đời sống tâm linh là một hành trình đầy ý nghĩa. Đó là một quá trình khám phá bản thân, nơi mà bạn học cách sống chung với những phê phán, đồng thời phát triển khả năng vượt lên trên chúng mà không để chúng làm xáo trộn cuộc sống của mình.

Sự quên mình, hay còn gọi là sự tự lượng, là một phần không thể thiếu trong việc phát triển trí tuệ. Nó đòi hỏi bạn phải biết cách giữ cho tâm hồn mình luôn trong trạng thái cân bằng, không bị lệch lạc bởi những cảm xúc tiêu cực hay những áp lực từ bên ngoài.

Công việc khó khăn nhất không phải là tìm kiếm sự thông thái cho bản thân, mà là giúp người khác mở lòng và tâm trí họ. Điều này đòi hỏi sự kiên nhẫn, lòng từ bi và khả năng lắng nghe sâu sắc. Bạn cần phải hiểu rằng mỗi người đều có một hành trình riêng và không thể ép buộc ai đó phải đi theo con đường của mình.

Trong cuộc sống, bạn thường gặp phải sự đau khổ và thử thách. Nhưng có phải chính những khoảnh khắc đó lại giúp bạn nhận ra giá trị của sự sống, của từng hơi thở và từng giây phút mà chúng ta có? Có phải chính sự cô đơn và đau khổ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về bản thân, về những yêu thương và nỗi buồn sâu kín của chính mình?

Có lẽ, sự đau khổ không hẳn là kẻ thù, mà có thể là người bạn đồng hành, giúp chúng ta mài giũa và phát triển bản thân. Khi bạn học cách chấp nhận và đối mặt với nó, chúng ta mới có thể tìm thấy sự tự do thực sự trong tâm hồn.

Và có lẽ, khi bạn nhận ra rằng mình không phải là nạn nhân của cuộc sống, mà là diễn viên chính trong câu chuyện của chính mình, chúng ta mới có thể viết nên những trang mới, những chương mới đầy ý nghĩa và sâu sắc.

Bạn và tôi hãy cùng nhau khám phá và khai mở trí tuệ, để từ đó, chúng ta có thể sống một cuộc sống đầy đủ và trọn vẹn, không chỉ trong thực tại mà còn trong đời sống tâm linh của mỗi chúng ta.

Phẩm chất của người phúc hậu.

Người phúc hậu có bản chất không chỉ là một phẩm chất đáng quý, mà còn là một nguồn sức mạnh tiềm ẩn có thể lan tỏa và thúc đẩy sự phát triển của cả cộng đồng. Họ không chỉ sống với một tâm hồn rộng lớn, mà còn thể hiện sự quan tâm sâu sắc đến những người xung quanh. Điều này không chỉ giúp họ tạo dựng được mối quan hệ tốt đẹp với mọi người, mà còn giúp họ trở thành những nhà lãnh đạo tự nhiên, những người mà người khác sẵn lòng tin tưởng và đi theo.

Người phúc hậu thường xuyên thực hiện những hành động thiện nguyện, không chỉ vì lợi ích cá nhân, mà còn vì lợi ích chung của cộng đồng. Họ là những người sẵn lòng hy sinh thời gian, công sức, thậm chí là lợi ích cá nhân để giúp đỡ người khác. Điều này không chỉ thể hiện lòng nhân ái, mà còn là biểu hiện của sự khiêm tốn và lòng tự trọng.

Người phúc hậu cũng thường xuyên thể hiện sự kiên nhẫn và lòng khoan dung. Họ không vội vàng phán xét hay chỉ trích người khác, mà thay vào đó, họ lắng nghe và cố gắng hiểu quan điểm của người khác. Họ biết rằng mỗi người đều có câu chuyện riêng và họ tôn trọng điều đó. Điều này giúp họ xây dựng được những mối quan hệ bền vững và sâu sắc.


Người phúc hậu cũng là người có tầm nhìn xa trông rộng. Họ không chỉ nhìn thấy những khó khăn trước mắt, mà còn có khả năng nhìn nhận và đánh giá các vấn đề một cách toàn diện. Họ hiểu rằng mỗi hành động, dù nhỏ nhất, đều có thể tạo ra sự thay đổi lớn lao trong cộng đồng và xã hội.Người phúc hậu luôn giữ vững lập trường và nguyên tắc của mình. Họ không dễ dàng bị lay chuyển bởi những lời dụ dỗ hay áp lực từ bên ngoài. Họ sống và hành động dựa trên những giá trị và đức tin mà họ tin tưởng. Điều này không chỉ giúp họ đạt được sự tôn trọng từ người khác, mà còn giúp họ trở thành nguồn cảm hứng cho những người xung quanh. Đây chính là những biểu hiện của một người phúc hậu, một người có trái tim rộng mở và tâm hồn cao thượng.


Thế giới cần rất nhiều những người Phúc hậu.

Thứ Tư, 24 tháng 4, 2024

Lá cờ của Huệ Năng

 Câu chuyện này rất sây sắc để hiểu về giáo lý của đạo Phật.

Hai nhà sư đang ngắm lá cờ tung bay trong gió ở ngoài sân. Người này nói với người kia: “Lá cờ đang chuyển động.”

Người kia trả lời: “Gió đang chuyển động.”

Huệ Năng tình cờ đi qua nghe được điều này. Ngài liền nói: “Không phải cờ, không phải gió; tâm trí hai người đang chuyển động.”

Công án này chứng tỏ nhận thức rằng khi đặt tên cho một đối tượng, người ta có thể che mờ sự hiểu biết của mình về bản chất thực sự của tâm bằng cách rơi vào mắt nhìn sự vật và tin rằng bản chất thực sự của lá cờ, gió và tâm là khác nhau.


Huệ Năng luôn chỉ dạy Phật giáo đó là "Nhất Tâm Nhất Thừa" trí tuệ (tiếng Phạn: prajna) đến từ Tinh hoa của Tâm chứ không phải từ nguồn bên ngoài. 


Tâm không động thì mọi sự đều tĩnh lặng

TIM TA CHÁY NHƯ LỬA


 "Tim ta cháy như lửa nhưng mắt ta lạnh như tro tàn." Đây là câu nói của thiến sư Soyen Shaku khi ngài đến Châu Mỹ.


Cụm từ  “Tim ta cháy như lửa” gợi lên hình ảnh mạnh mẽ của niềm đam mê và mãnh liệt. Đó là lời nhắc nhở rằng trái tim chúng ta có thể cháy bỏng với lòng nhiệt thành đối với cuộc sống, tình yêu và mục đích. Những lời dạy được đề cập trong thông điệp của ngài Soyen Shaku phản ánh triết lý về chánh niệm và sống có mục đích. Ngài nhấn mạnh tầm quan trọng của việc hiện diện, hành động có mục đích và nắm bắt cơ hội bằng lòng can đảm. Việc thực hành thiền và duy trì một thói quen cũng như tiêu dùng điều độ là những nguyên tắc phù hợp với nhiều truyền thống trí tuệ trên khắp thế giới. Những nguyên tắc này khuyến khích chúng ta sống chân thực, đối xử với người khác bằng sự tôn trọng và hiện diện giống như chúng ta dành cho bản thân, đồng thời buông bỏ những hối tiếc trong quá khứ để tập trung vào tương lai. Lối sống như vậy có thể mang lại cảm giác thỏa mãn sâu sắc và bình an nội tâm.

Ngài đặt ra những quy luật mà ngài thực hành mỗi ngày trong cuộc đời ngài. Đó là:

-Buổi sáng trước khi khoác y phục, hãy thắp nhang và thiền định.

-Lui vào an nghỉ theo một giờ giấc nhất định. Nhận phần ăn uống vào những lúc nhất định.

-Ăn điều độ và không bao giờ tới mức thỏa mãn.

-Tiếp một người khách với cùng một thái độ mà như khi bạn ở một mình. Khi ở một mình, cũng giữ nguyên thái độ như lúc bạn tiếp khách.

-Lưu ý vào điều gì bạn nói, và bất cứ bạn nói điều chi, hãy thực hành điều đó. 

-Khi một cơ hội đến đừng để nó trôi đi, tuy nhiên luôn luôn suy nghĩ hai lần trước khi hành động. 

-Đừng nuối tiếc quá khứ. Hãy nhìn tới tương lai. 

-Nên có thái độ không hãi sợ của một người anh hùng và trái tim thương yêu của một đứa trẻ. 

-Khi đi ngủ, hãy ngủ như là bạn đang bước vào giấc ngủ cuối cùng của bạn.

- Khi thức dậy, hãy rời bỏ cái giường lại phía sau bạn ngay tức khắc như là bạn vứt bỏ đi một đôi giày cũ.

Phép ẩn dụ về lửa và tro được sử dụng bởi thiền sư Soyen Shaku, người đầu tiên đưa Thiền tông đến Mỹ, tượng trưng cho sự cân bằng giữa niềm tin ấm áp bên trong của chúng ta và sự tách biệt lạnh lùng khỏi những cảm xúc phù du .

Thứ Ba, 23 tháng 4, 2024

So sánh

 Khi bạn ngồi thiền phải có những tỉnh giác. Một là công phu này nó có lợi ích gì hay không. Thứ hai là cách làm việc của mình có thuận lợi không. Công việc này nó có đưa mình ra khỏi cảnh giới chánh niệm không. Hãy nhớ rằng từng giây phút tu tập là danh sắc tu tập chứ không phải ai đó đang tu tập. Và phải ghi nhớ các câu này:

"Chỉ có sự khổ chứ không có người bị khổ.

Chỉ có nguyên nhân sanh khổ chứ không có ai tạo khổ.

Chỉ có cứu cánh thoát khổ chứ không có người thoát khổ.

Chỉ có con đường hành trì thoát khổ chứ không có người nào hành trì con đường đó."


Có nghĩa là mỗi lần bạn tu hành chỉ có chánh niệm và trí tuệ làm việc chứ không có "Tôi đang có chánh niệm". Phật dạy "cái tôi không thật" cho nên kông có "Tôi đang có chánh niệm" mà chỉ ghi nhận "Chánh niệm đang có mặt. Chánh niệm có mặt sẽ cảm nhận đựoc Từ tâm đang có mặt, Tâm tham đang có mặt, Tâm sân đang có mặt. Cơn đau đang có mặt. Sự thoải mái đang có mặt, ...". Chỉ vậy thôi. Có thể bây giờ nghe những điều trên rất là kỳ, nhưng mai này khi bạn bị bị trọng bệnh mới nhận thức được. Ghi nhận "Sự sợ hãi đang có mặt" nó tốt hơn là "Tôi đang sợ hãi". Sống chết phải nhớ cái này. Đau quá, chỉ biết rằng "Cơn đau đang có mặt" thôi. Bạn siêu hơn nữa là "Cơn đau vừa biến mất".

Khi chánh niệm bạn dày dặn thì lúc đó bạn sẽ thấy rằng mọi cái bạn ghi nhận được nó "vừa biến mất" chứ không phải "đang có mặt" nữa. Điều này thuộc về tâm pháp, khi ta ghi nhận được nó thì nó đã "vừa biến mất" chứ không phải là "đang có mặt". Thí dụ, tôi đang bực mình, tôi biết rằng cái sự bực mình nó vừa biến mất. Vì sao? Vì khi cái tâm bực mình được ghi nhận thì lúc đó nó đã nhường chỗ cho chánh niệm rồi. Còn cách nói thế gian là mình sống trong hiện tại. Mình nói mình tâm sân mình biết mình đang có tâm sân. Đó là cách nói phổ thông dành cho người không biết giáo lý. Những người biết giáo lý thì phải hiểu rằng khi ta nhận diện được tâm tham, nhận diện được tâm sân, thì ngay lúc đó nó vừa biến mất. Bởi vì nó phải biến mất để nó mới nhường chỗ cho cái chánh niệm ghi nhận nó. Không bao giờ hai cái tâm thiện, ác cùng có mặt một lúc. Hai tâm thiện không cùng có mặt thì làm gì có chuyện hai tâm thiện và ác cùng có mặt được? 

Thí dụ" Một đoàn tàu chạy trên đường rầy, trong từng khoảnh khác trên mỗi đường rầy chỉ có một toa chứ không có hai toa. Hai đường rầy thì được, chứ trên một đường rầy thì phải có toa trước toa sau. Như khi bạn hiểu về luân hồi tức là một vòng tròn tiếp nối không có sự trùng lắp.

Khi bạn đang sống trong cuộc sống, đang trong lúc tu tập thiền định, ngay trong cuộc sống này luôn luôn ghi nhớ "Ta đang có mặt trong một cuộc luân hồi vi mô". Và "Luân hồi vi mô là mở đường, là nền tảng cho luân hồi vĩ mô". Luân hồi vĩ mô là đầu thai kiếp này qua kiếp kia. Luân hồi vi mô là sự chuyển đổi từ buồn, vui, sướng, khổ, thiện, ác trong từng phút. Chính cái luân hồi vi mô nó mới tạo ra luân hồi vĩ mô. Và ai là người nhận ra cái đó? Người đang sống chánh niệm. Cứ đọc như câu thần chú "Ta sống nhiều với cái gì thì ta sẽ đi với cái đó". Trong Phật giáo, quan niệm về luân hồi vi mô và vĩ mô là một phần của quá trình tu tập và nhận thức. Luân hồi vi mô, hay sự chuyển đổi liên tục của cảm xúc và hành động trong từng khoảnh khắc, được xem như là nền tảng cho luân hồi vĩ mô, tức là chuỗi tái sinh từ kiếp này sang kiếp khác. Sự nhận thức về luân hồi vi mô giúp người tu tập sống chánh niệm và nhận ra rằng mọi hành động và suy nghĩ đều có ảnh hưởng đến chu kỳ tái sinh của bản thân. 

Khi hiểu được như vậy thì cái chuyện cầu an, cầu siêu có cần thiết hay không?. Cái vi mô của bạn mà yếu quá thì bạn mới cần cầu siêu. Cho nên đạo Phật chỉ cho chúng ta con đường tu tập để mình tự cứu lấy mình. Nếu không thì cả đời làm những chuyện ác đến khi cần tử nghiệp rồi thì đem tiền để mời thỉnh Tăng Ni tới để cầu siêu độ , việc này là trái vơi lời dạy của phật rồi. Nếu cho rằng nhờ Tăng Ni cầu mà siêu được thì cõi trời chắc dành cho các bậc đại gia, đại phú rồi. Cõi trời là nơi dành cho những ai có tâm tu tập thiện lành, cho tất cả mọi người và rất tiếc cõi lành thì không thể mua bằng tiền 

Phật giáo có câu chuyện khá thú vị "Có một ông hành giả hỏi vị thiền sư "Có cách nào thu gọn Phật pháp trong một câu nói không?". Vị thiền sư mới lấy một cây que vạch một đường dưới đất, rồi hỏi "Đường vạch này dài hay ngắn?". Ông hành giả nói "Thưa Ngài, nói không được, bởi vì muốn nói dài hay ngắn mình phải so với cái gì đó." Thiền sư mới nói "Đó, Phật pháp là gom trong đó đó."

Tại sao Phật pháp gom trong câu đó? Là vì mình có so sánh nên mình mới ghét cái này thích cái kia. Vì mình có thích ghét mình mới làm các việc thiện ác. Khi tâm bạn so sánh một cái áo mịn màng và một cái áo vài thô nhám thì bạn sẽ thấy thích cái mịn màng mà ghét cái thô nhám đó. Bạn phải có "so sánh" trong đó mới tạo nên tâm "thích và ghét"

Đời sống này nó là một sự so sánh. Tại sao thích ăn cay? Là vì cái cay nó ngon hơn cái không cay. Tại sao sợ cay? Là vì cái không cay nó ngon hơn cái cay. Tại sao có những món mình phải ăn nóng? Là vì ăn nóng nó ngon hơn không nóng. Có nhiều món là mình phải ăn lạnh nó ngon hơn không lạnh.  Có nghĩa là ghét và thích nó đều đi ra từ so sánh. Từ có so sánh mới có thích ghét. Từ có thích ghét nên người ta mới có trốn ghét tìm thích. Và có nhiều con đường trốn ghét tìm thích. Con đường thứ nhất là thiện ác bất chấp. Con đường thứ hai là làm lành lánh dữ. Để làm gì? Để kiếm được cái thích và né được cái ghét. Như vậy toàn bộ Phật pháp nằm trong đường vạch đó trong câu chuyện kể mà thôi.


Phỏng theo pháp thoại sư Tịnh Không và sư Toại Khanh

Thứ Hai, 22 tháng 4, 2024

14 Quy tắc tự đánh bại bản thân

 Albert Ellis, qua công trình nghiên cứu và phát triển Liệu pháp Hành vi Cảm xúc Hợp lý (REBT), đã đưa ra những quan điểm mạnh mẽ về cách chúng ta tạo ra rắc rối cho bản thân thông qua những niềm tin không hợp lý. Ông cho rằng, chúng ta thường xuyên tự đặt ra những quy tắc không thực tế cho bản thân, dẫn đến sự không hài lòng và mất cân bằng cảm xúc. Những quy tắc này, như cần được mọi người chấp nhận hoặc phải tránh bị ghét bỏ, thực sự là những niềm tin tự hạn chế mà chúng ta có thể thách thức và thay đổi. REBT khuyến khích chúng ta nhận diện và điều chỉnh những suy nghĩ này, thay vì để chúng kiểm soát hành vi và cảm xúc của mình.

Ellis nhấn mạnh rằng, chúng ta có thể học cách chấp nhận lỗi lầm và thất bại mà không tự phê phán mình một cách khắc nghiệt. Ông cũng chỉ ra rằng, việc tìm kiếm hạnh phúc không phải là một quá trình thụ động; chúng ta cần phải chủ động đóng góp và tạo ra giá trị trong cuộc sống của mình. Bằng cách từ bỏ niềm tin rằng người khác phải làm cho mình hạnh phúc hoặc phải chịu trách nhiệm thay cho mình, chúng ta mở ra cơ hội để phát triển cá nhân và cải thiện mối quan hệ với người khác.

Sau đây là 14 quy tắc mà chúng ta tự đánh bại bản thân

1- Tôi cần bất cứ ai tôi biết chấp nhận tôi

2- Tôi phải tránh bị bất cứ nguồn nào ghét bỏ.

3- để trở thành người định giá tôi phải thành công trong mọi việc tôi làm.

4- Tôi không được mắc lỗi lầm. Nếu tôi làm vậy thì tôi thật tệ.

5-Mọi người phải luôn làm cho tôi hạnh phúc.

6-Người không làm mình vui thì nên bị trừng phạt.

7-Mọi việc phải diễn ra theo cách tôi muốn.

8-Cảm xúc của tôi là căn bệnh mà tôi không thể kiểm soát được.

9-Tôi có thể cảm thấy hạnh phúc trong cuộc sống mà không cần phải đóng góp lại bằng cách nào đó.

10. Mọi người đều cần phải dựa vào ai đó mạnh mẽ hơn mình.

11- Những sự việc trong quá khứ là gốc rễ của thái độ và hành vi của tôi ngày nay.

12-Kết quả trong tương lai của tôi sẽ giống như kết quả trong quá khứ của tôi.

13-Tôi không nên cảm thấy buồn bã, chán nản và đau đớn.

14- Ai đó, ở đâu đó, phải chịu trách nhiệm thay tôi.


Những quy tắc tự đánh bại mình mà Ellis đề cập đến không chỉ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về cách thức mình tạo ra sự bất hạnh, mà còn cung cấp một khung cảnh để phản tỉnh và thay đổi. Chúng ta có thể học cách thay đổi những niềm tin không hợp lý thành những suy nghĩ tích cực và hợp lý hơn, từ đó dẫn đến hành vi và cảm xúc tốt đẹp hơn. Qua việc áp dụng những nguyên tắc của REBT, chúng ta có thể trở nên linh hoạt hơn trong cách tiếp cận vấn đề, giảm bớt sự căng thẳng và tăng cường sức khỏe tâm lý. Đây là một bước quan trọng trong hành trình hướng tới sự tự do cảm xúc và một cuộc sống hạnh phúc hơn.


Sức khỏe là tài sản quý giá nhất

 Bạn hiểu gì về cấu "sức khỏe là tài sản quý nhất". Bạn dành một chút thời gian để trả lời câu hỏi này thì sức khỏe chính xác là của cả hai tâm và thân. Sức khỏe không phải là mục đích, không phải là điểm đến mà chính là phương tiện để đạt được mục đích của đời mình. Bởi vì chỉ khi bạn khỏe mạnh, bạn mới làm được những điều bạn muốn làm và đây chính là phương tiện để thực hiện mục đích cuộc đời mình.

Cho nên sức khỏe, quả thực, là tài sản quý giá nhất mà mỗi người chúng ta có thể sở hữu. Nó là nền tảng vững chắc cho mọi hoạt động, mục tiêu và ước mơ trong cuộc sống. Sức khỏe thực sự là sự cân bằng và hòa hợp giữa tâm hồn và thể xác. Nó là sức mạnh để chúng ta đối mặt với thử thách, là động lực để chúng ta tiến bước trên con đường đời, và là điều kiện tiên quyết để chúng ta thực hiện những công việc có ý nghĩa.

Thí dụ bạn muốn đăng ký nhập ngũ để bảo vệ đất nước nhưng thể lực bạn không có thì quân đội cũng không nhận bạn. 

Bạn muốn thành công trên thương trường bạn phải làm việc và phấn đấu ngàyêm nhưng bạn không có sức khởe thì mục tiêu này cũng không đạt được.

Ngay cả bạn là một vị sư mà sức khỏe bạn không có thì công phu tu tập, ngồi thiền tụng kinh khuya và dậy sớm không hoàn thành đưoc.

Nhưng sức khỏe không chỉ dừng lại ở việc giữ gìn thể chất. Nó còn liên quan mật thiết đến tâm trạng, cảm xúc và tinh thần của chúng ta. Một tâm hồn khỏe mạnh, không bị chi phối bởi lòng tham, sự giận dữ hay kiêu ngạo, sẽ góp phần tạo nên một thể chất bền vững. Sức khỏe tâm lý cũng quan trọng không kém, vì nó giúp chúng ta duy trì sự cân bằng và hạnh phúc trong cuộc sống hàng ngày.

Sức khỏe không phải là sự vắng mặt của bệnh tật. Đức Phật có nói rằng " thậm chí trong một khoảnh khắc có ai đó nói rằng họ rất khỏe mạnh thì họ chính là một kẻ ngu ngốc" bởi vì họ chỉ đang nói về sự khởe mạnh về thân thể còn bất cứ lúc nào trong cơ thể của chúng ta cũng có một loại vi trùng đang sinh sống.  Các loại vi trùng này ngày đêm đang làm việc trong cơ thể chúng ta. Cho nên chúng ta mới phát sinh các loại bệnh như tiểu đường , cao máu, cao mỡ hay là ung thư v.v.

Vậy sức khỏe là gì? " Sức khỏe là một thái độ là một định hướng bao gồm những giá trị và đức tin của chúng ta về bản thân mình và thế giới chung quanh". Do đó nếu bạn có một sự suy nghĩ sai lầm về bản thân mình hay thế giới chung quanh thì điều đó có nghĩa là bạn đang không khởe mạnh. Điều này rất sâu sắc vì chính tất cả các phẩm chất bên trong sẽ tạo nên các phương pháp rèn luyện sức khỏe. Có thể bạn đang sử dụng thực phẩm dinh dưỡng, đến phòng tập để chạy bộ để giúp bạn khỏe mạnh về mặt thể lý. Nhưng bạn cũng sẽ mắc phải những bệnh về tâm lý như tham lam quá độ, sân giận quá mức và ngã mạn quá cao là những bệnh tâm lý sẽ bào mòn sức khỏe của bạn.

Vậy làm thế nào để duy trì sức khỏe? Đó là một hành trình không ngừng nghỉ, một quá trình rèn luyện và chăm sóc cả thể chất lẫn tâm hồn. Chúng ta cần có một chế độ ăn uống cân đối, một lối sống lành mạnh, và một tinh thần lạc quan. Chúng ta cũng cần phải học cách quản lý stress, nuôi dưỡng các mối quan hệ tích cực, và không ngừng tìm kiếm kiến thức để hiểu biết sâu sắc hơn về bản thân và thế giới xung quanh.


Cuối cùng, sức khỏe là một thái độ sống, một quan điểm cá nhân về cách chúng ta đối diện và vượt qua những thách thức. Nó là sự tự do để chúng ta sống trọn vẹn từng khoảnh khắc, và là sự tự tin để chúng ta dấn thân vào những cuộc phiêu lưu mới. Sức khỏe không chỉ là một phần của cuộc sống, mà chính là cuộc sống đích thực. Hãy trân trọng và bảo vệ tài sản quý giá này, bởi vì nó là chìa khóa mở ra cánh cửa của hạnh phúc và thành công.

Chủ Nhật, 21 tháng 4, 2024

Thận trọng khi đưa ra lời hứa hẹn

 Lời hứa là một phần không thể thiếu trong mọi mối quan hệ, từ cá nhân đến xã hội. Chúng ta hứa hẹn không chỉ để thể hiện sự cam kết mà còn để xây dựng niềm tin và sự tin cậy. Khi chúng ta hứa hẹn, chúng ta đang tạo ra một kỳ vọng và một lời hứa không được giữ có thể dẫn đến sự thất vọng và mất mát. Tuy nhiên, điều quan trọng là phải nhận thức được khả năng của bản thân và không hứa hẹn những điều không thể thực hiện được.

Trong mọi tình huống, việc giữ lời hứa là một hành động quan trọng để duy trì mối quan hệ lành mạnh và sự tôn trọng lẫn nhau. Khi bạn không thể giữ lời hứa, điều quan trọng là phải truyền đạt sự thật một cách trung thực và kịp thời, cung cấp lý do chính đáng và, nếu có thể, đề xuất một giải pháp thay thế hoặc cách để bù đắp.

Bản thân tôi cũng rất hay hứa hẹn cho nên đôi khi tôi cũng cảm thấy rất áp lực. Tôi nhớ lại cách đây 18 năm trước khi bố tôi qua đời , tôi đã nắm lấy tay ông và hứa sẽ làm tất cả những gì bố tôi muốn. Tuy nhiên tôi cũng rẩt may mắn luôn hoàn thành những lời hứa này. Những gì bạn làm được cho người bạn thương yêu thì bạn nên làm. Đây cũng là một cách bạn biểu lộ tình cảm với họ mà không có bất kỳ một vụ lợi nào. Bạn sẽ là chủ đựợc các hành động của bạn thay vì những lời hứa hẹn mà sau đó có những điều bất lợi đã ngăn trở bạn hoàn thành nó.

Trong tình yêu và các mối quan hệ cá nhân, lời hứa có một ý nghĩa đặc biệt sâu sắc. Tuy nhiên những lời hứa thề non hẹn biển đại loại như " em/anh sẽ yêu mãi mẫi. Đây là lời hứa khó giữ nhất bởi vì khi yêu nhau thì khác mà hôn nhân lại là một lãnh vực đòi hỏi cả hai phải cùng phấn đấu để giữ lời hứa này.Chúng không chỉ là lời nói, mà còn là biểu hiện của sự quan tâm và cam kết cho nhau. 

Nói tóm lại chúng ta nên cẩn thận khi đưa ra bất kỳ một loại hứa hẹn nào. Nói như thê không phải bạn không nên hứa hẹn với bất cứ người nào. Bạn có thể sẽ trở nên một người rất ích kỷ nếu luôn phải trốn tránh những lời hứa hẹn. Bạn nên tìm hiểu rỏ bản thân mình là ai trước khi nhận lời hứa với ai đó. Trong cuộc sống nếu bạn có bản lảnh và trí thông minh thì bạn sẽ biết khi nào thì đưa ra lời hứa và cho ai. Thực hiện được lời hứa của mình sẽ làm cho tâm trạng bạn phấn chấn hơn vì bạn đã đem đến niềm tin và hạnh phúc khi hoàn thành lời hứa với người bạn thương hoặc là ngưòi nào mà  tình cờ bứơc vào cuộc đời bạn. Cho dù có khó khăn bao nhiều thì lời hứa hẹn cũng sẽ làm cho bạn trở nên tốt hơn với chính bản thân bạn và cho xã hội.

Cuối cùng, việc hứa hẹn là một trách nhiệm đòi hỏi sự cân nhắc và tự nhận thức. Chúng ta nên hứa hẹn những điều mà chúng ta có khả năng và ý định thực hiện, và luôn nhớ rằng mỗi lời hứa là một dấu ấn của danh dự và tính cách của chúng ta. Hãy hứa hẹn một cách khôn ngoan và giữ lời hứa của bạn như một lời cam kết thiêng liêng. Đó là cách chúng ta xây dựng và duy trì niềm tin, không chỉ trong mắt người khác mà còn trong chính bản thân mình.


Thứ Bảy, 20 tháng 4, 2024

Trí Tuệ Cảm Xúc: Khám Phá Sức Mạnh Của Cảm Xúc Trong Thế Giới Hiện Đại

 

Trí tuệ cảm xúc, một khái niệm đã được đưa ra từ những năm 1990 bởi hai nhà tâm lý học Peter Salovey và John Mayer, đã mở ra một chân trời mới trong việc hiểu và ứng dụng cảm xúc vào cuộc sống hàng ngày và môi trường làm việc. Daniel Goleman, một nhà tâm lý học kiêm nhà báo, đã đưa khái niệm này đến với công chúng rộng rãi hơn thông qua cuốn sách của ông, "Trí tuệ cảm xúc: Lý do vì sao nó có thể quan trọng hơn chỉ số IQ".

Khái niệm này không chỉ giới hạn ở việc nhận biết và điều chỉnh cảm xúc của bản thân mà còn mở rộng ra việc sử dụng cảm xúc để thúc đẩy tư duy, tăng cường khả năng giao tiếp và xây dựng mối quan hệ. Trí tuệ cảm xúc đã trở thành một yếu tố quan trọng trong việc đưa ra quyết định và phát triển cá nhân, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh doanh và quản lý.

Goleman đã chỉ ra rằng, việc phát triển trí tuệ cảm xúc không chỉ giúp cá nhân đưa ra những quyết định sáng suốt hơn mà còn giúp họ trở thành những nhà lãnh đạo tốt hơn, những người có khả năng hiểu và đáp ứng nhu cầu của nhân viên, đồng thời tạo ra một môi trường làm việc tích cực và hỗ trợ sự sáng tạo.

Trong cuốn sách "EQ Applied: The Real-World Guide to Emotional Intelligence", Justin Entiso đã mô tả cách thức mà trí tuệ cảm xúc có thể được áp dụng vào thực tế, từ việc tự nhận thức đến việc quản lý cảm xúc và xung đột. Các khả năng này không chỉ giúp cá nhân phát triển bản thân mà còn giúp họ tạo ra những tác động tích cực đến môi trường xung quanh.


Vậy làm thế nào để phát triển trí tuệ cảm xúc? Dưới đây là một số cách thức:


1. Tự nhận thức: Hãy dành thời gian để suy ngẫm về cảm xúc của bạn, điểm mạnh và điểm yếu, và giá trị của bản thân. Điều này sẽ giúp bạn hiểu rõ hơn về mình và cách bạn phản ứng với các tình huống khác nhau.

2. Tự quản lý: Học cách kiểm soát cảm xúc và hành vi của bạn, đặc biệt trong những tình huống căng thẳng hoặc xung đột. Điều này sẽ giúp bạn duy trì sự bình tĩnh và tập trung, ngay cả khi đối mặt với thách thức.

3. Kỹ năng xã hội: Phát triển khả năng giao tiếp và xây dựng mối quan hệ với người khác. Điều này bao gồm việc lắng nghe, thấu hiểu và phản hồi một cách có ý thức đến cảm xúc của người khác.

4. Đồng cảm: Hãy cố gắng hiểu và chia sẻ cảm xúc của người khác. Điều này không chỉ giúp bạn kết nối sâu sắc hơn với người khác mà còn giúp bạn trở thành một người lãnh đạo và đồng nghiệp tốt hơn.

Trí tuệ cảm xúc không phải là một khái niệm xa vời, mà là một kỹ năng có thể được học hỏi và phát triển qua thời gian. Nó đóng một vai trò quan trọng trong việc xây dựng một cuộc sống cá nhân và chuyên nghiệp hạnh phúc và thành công. Hãy bắt đầu từ bây giờ, và bạn sẽ thấy sự khác biệt mà trí tuệ cảm xúc mang lại cho cuộc sống của bạn.

Thứ Sáu, 19 tháng 4, 2024

Chứng mất trí nhớ


Sa sút trí tuệ là tình trạng mất dần chức năng nhận thức, biểu hiện bằng các vấn đề về trí nhớ, khó giao tiếp, suy giảm khả năng phán đoán và suy nghĩ nhầm lẫn. Chứng sa sút trí tuệ thường xảy ra ở độ tuổi từ 65 trở lên nhưng là một dạng suy giảm nghiêm trọng hơn so với quá trình lão hóa thông thường. Những người mắc chứng mất trí nhớ có thể mất khả năng điều chỉnh cảm xúc, đặc biệt là sự tức giận và tính cách của họ có thể thay đổi.


Chứng mất trí nhớ là một thuật ngữ chung dùng để chỉ sự suy giảm nhận thức liên quan đến tuổi tác do nhiều yếu tố khác nhau cũng như do quá trình lão hóa gây ra ở một số người. Thuật ngữ này cũng được sử dụng để chỉ một loạt các triệu chứng, từ một số khó khăn nhỏ trong hoạt động đến suy giảm nghiêm trọng. Dạng sa sút trí tuệ phổ biến nhất là bệnh Alzheimer, một căn bệnh ảnh hưởng đến hơn 5 triệu người Mỹ. Hiện tại không có cách chữa trị cho hầu hết các loại bệnh sa sút trí tuệ, nhưng một số phương pháp điều trị có thể giúp giảm bớt các triệu chứng tạm thời.


Dấu hiệu cảnh báo bệnh sa sút trí tuệ là gì?


Khi một người gặp vấn đề về trí nhớ và suy nghĩ khiến họ không thể hoạt động bình thường liên tục thì họ mắc chứng mất trí nhớ. Có ba dấu hiệu cảnh báo chính cho chứng sa sút trí tuệ: cá nhân, gia đình họ hoặc bác sĩ lo ngại rằng trí nhớ và khả năng tư duy đã bị suy giảm đáng kể; hiệu suất của họ trong các bài kiểm tra tư duy hoặc trí nhớ bị suy giảm; và/hoặc các vấn đề liên quan đến suy nghĩ và trí nhớ đang cản trở các hoạt động hàng ngày, từ việc phức tạp (vệ sinh, nấu ăn, uống thuốc) đến đơn giản (tắm, mặc quần áo, ăn uống và đi vệ sinh).


Làm thế nào bạn có thể mắc chứng mất trí nhớ?


Chứng sa sút trí nhớ không phải là một chẩn đoán - nó không nói gì về nguyên nhân cơ bản của tình trạng suy giảm khả năng suy nghĩ và trí nhớ. Chứng mất trí nhớ có thể do nhiều yếu tố gây ra, bao gồm rối loạn tuyến giáp, thiếu hụt vitamin, tác dụng phụ của thuốc, trầm cảm, lo lắng, nhiễm trùng, đột quỵ, bệnh Parkinson và các vấn đề y tế khác. Trong một số trường hợp, suy giảm nhận thức có thể hồi phục nếu được chẩn đoán và điều trị sớm.



Chứng mất trí tiến triển nhanh như thế nào?



Bệnh Alzheimer là một bệnh não không phải là một phần bình thường của quá trình lão hóa. Bệnh Alzheimer khởi phát sớm (ở những người dưới 65 tuổi) có thể khá phổ biến. Ở giai đoạn sớm nhất, bệnh nhân có thể gặp khó khăn trong việc học và ghi nhớ thông tin mới. Khi bệnh tiến triển, bệnh nhân có thể gặp một loạt triệu chứng, bao gồm mất phương hướng và nhầm lẫn, mất trí nhớ, nghi ngờ đột ngột, vô căn cứ về người thân và thậm chí thay đổi hành vi và tính cách. Những người mắc bệnh Alzheimer có thể là người cuối cùng biết họ mắc bệnh này vì não của họ đang bị ảnh hưởng và tình trạng của họ thường rõ ràng hơn đối với những người tiếp xúc với họ hàng ngày, đặc biệt là bạn bè và gia đình.


Sự khác biệt giữa bệnh mất trí nhớ và bệnh Alzheimer là gì?


Trong khi các thuật ngữ “bệnh Alzheimer” và “dementia” thường được sử dụng thay thế cho nhau, bệnh Alzheimer thực sự là một tập hợp nhỏ của chứng dementia, cùng với chuỗi suy giảm của mạch máu. Bệnh Alzheimer cực kỳ phổ biến, chiếm khoảng 60-80% tổng số ca chẩn đoán chứng "dememtia".


Trầm cảm và lo lắng có phổ biến ở những người mắc chứng mất trí nhớ không?


Đúng vậy, nhận thức được sự suy giảm nhận thức của bản thân có xu hướng gây ra trầm cảm và lo lắng. Chỉ lo lắng rằng bạn có thể mất trí cũng có thể khiến bạn trở nên trầm cảm hoặc lo lắng. Thêm vào đó, các bệnh thoái hóa thần kinh như Alzheimer thường làm suy giảm các chất dẫn truyền thần kinh như dopamine, norepinephrine và serotonin, ảnh hưởng đến tâm trạng và sự bình tĩnh của một ngưòi. Kết quả là lo lắng và trầm cảm xảy ra ở hơn một nửa số người mắc chứng mất trí nhớ. Thiền, tập thể dục, dùng thuốc và trị liệu nhấn mạnh đến sự thư giãn thường có hiệu quả trong việc điều trị chứng lo âu và trầm cảm thường đi kèm với chứng mất trí nhớ.


Bệnh nhân Alzheimer nhớ gì?


Thực hiện những thay đổi quan trọng trong lối sống là rất quan trọng để giảm nguy cơ phát triển bệnh Alzheimer của một người, cũng như duy trì chức năng nhận thức tốt càng lâu càng tốt. Điều này bao gồm việc tham gia vào các hoạt động thể chất thường xuyên, làm tăng lưu lượng máu và oxy trong não. Điều quan trọng nữa là phải thực hiện một chế độ ăn có lợi cho tim với nhiều nước, trái cây, rau và ngũ cốc nguyên hạt, đồng thời hạn chế đường và chất béo bão hòa.


Duy trì hoạt động xã hội sau này cũng có thể giúp bảo vệ chống lại bệnh Alzheimer và dementia; điều này có thể bao gồm việc phát triển một mạng lưới bạn bè và gia đình mạnh mẽ, hỗ trợ và trở thành một phần của cộng đồng quan trọng đối với bạn.

Bệnh mất trí nhớ có thể được chữa khỏi?

Không, không có cách chữa trị chứng mất trí nhớ. Tuy nhiên, lựa chọn lối sống lành mạnh có thể giúp giảm nguy cơ suy giảm nhận thức nghiêm trọng và trong một số trường hợp, việc điều trị nguyên nhân cơ bản có thể đảo ngược các tác động tiêu cực.

Làm thế nào có thể ngăn ngừa chứng mất trí nhớ?

Sự suy giảm nhận thức có thể là điều không thể tránh khỏi nhưng nó có thể bị trì hoãn thông qua việc lựa chọn lối sống lành mạnh. Ăn một chế độ ăn uống bổ dưỡng; các chất dinh dưỡng như lutein (một sắc tố caroten có trong lòng đỏ trứng, các loại rau lá xanh và họ cải) có thể bảo tồn chất xám trong não của bạn. Ưu tiên giấc ngủ ngon, không hút thuốc, hạn chế uống rượu, duy trì hoạt động thể chất và tìm cách giữ cho bộ não của bạn hoạt động (ví dụ: trò chơi ô chữ, học thêm những môn học khác). Duy trì hoạt động xã hội cũng có thể bù đắp nguy cơ suy giảm nhận thức, đặc biệt là bắt đầu ở độ tuổi 60.


Đăng trên tạp chí Tâm lý học ngày nay

Thiên lan biên dịch

++ Alzheimer là bệnh mất trí nhớ có thể xảy ra ở bất cứ độ tuổi nào 

++ Dememtia là bệnh lãng trí của người lớn tuối. 

Thứ Năm, 18 tháng 4, 2024

Công đức và Phước đức

Chúng ta là những người con Phật nhưng có lẽ không phân biệt được công đức và phước đức lại khác nhau như thế nào. Bất luận bạn là tại gia hay xuất gia đều phải hiểu đạo lý này. Bởi vì Phật pháp thù thắng sẽ tạo cơ hội cho bạn ngay trong đời này có thể viên thành Phật đạo, vĩnh viễn thoát khỏi vòng luân hồi sanh tử. Chuyện này rất hiếm có, chẳng dễ thoát khỏi luân hồi ngay cả những vị đã xuất gia.

Trong phép tu Tịnh Độ nếu bạn duy trì sự tu tập thì không ai chẳng thành công và chúng ta thật sự giải thoát ở kiếp này. Vãng sanh ở thế giới Tây Phương Cực Lạc thì phải nói thân thể này của chúng ta là thân cuối cùng trong lục đạo luân hồi. Bạn không còn luân hồi nữa nên điều này là trọng yếu cho nên không còn gì là quan trọng hơn. Nếu bạn chịu khó học giáo lý đạo Phật cho rốt ráo thì nỗi khổ luân hồi rất kinh sợ.


Hảy nhìn vào cuộc sống và hoàn cảnh sống hàng này của bạn. Suốt ngày bạn khởi lên bao nhiêu ý niệm là giới, định, huệ? và bao nhiêu ý niệm là Tham, sân si? chỉ cần so sánh một chút là bạn sẽ hiểu ngay. Nếu thời gian khơi lên ý niệm tham sân si nhiều hơn giới định huệ thì bạn sẽ phải đi vào cảnh giới của ba ác đạo. Tâm tham là ngạ quý đạo, tâm sân là địa ngục đạo và si là súc sanh đạo. Trong một ngày, từ sáng đến tối, tiếp đãi người, xử sự, tiếp vật sáu căn tiếp xúc sáu trần, dấy lên niệm nào nói câu nào và làm chuyện gì bạn đều biết không cần hỏi người khác. Còn chẳng biết bản thân mình sanh vào đời sau như thế nào vì vậy muốn vãng sanh thì phải nhớ câu Phật hiệu : Đọc kinh mỗi ngày nhất là kình vô lượng thọ niệm phật hiều A Di ĐÀ Phật càng nhiều càng tốt. Nếu chẳng may bạn không đọc kinh mỗi ngày thì hảy nghe kình và trong tâm phải có phât. Bạn phải chắc rằng thời gian bạn nghe kinh, nghe thuyết pháp dài hơn thời gian bạn nghĩ lung tung.

 

Tụng kinh, niệm Phật là công đức chân thật. Tu thiện làm phước là tốt đẹp , phước huệ song tu là đúng. Nếu bạn được hưởng phú quý, giàu sang đây là phứoc báu có được thì bạn cũng nên tiếp tục tu tập công đức và làm phước thiện thì điều cuối cúng khi lâm chúng sẽ hưởng được quả " thiện chung" tức là lúc mất đầu óc tỉnh táo, sáng suốt không đau khổ. Chỉ như vậy sẽ không trở lại nhân gian hưởng phú quý nữa mà sẽ được sanh vào cõi cao hơn đó là sanh lên trời và hưởng phước trời. Đó là ngũ phứoc và quan trọng nhất trong ngũ phước là điều cuối cùng vì nó sẽ quyết định quả báo của bạn cho đời sạu. Nếu không tu tập chúng ta dễ bị lú lẫn khi về già. Cho dù gia đình có hộ niệm, niệm phật thật nhiều thì họ cũng chẳng hưởng được gì bởi vì nghiệp của họ đã trổ và họ sẽ di chuyển theo nghiệp của họ. 


Nói tóm lại công đức liên quan đến việc tu tập nội tâm, giảm thiểu ham muốn và phiền não, và là nền tảng để đạt đến giác ngộ và giải thoát khỏi luân hồi sanh tử. Phước đức, mặt khác, được xây dựng thông qua việc giúp đỡ người khác và thực hành các việc lành trong hiện tại  nhưng vẫn còn trong vòng luân hồi. Cả hai đều cần được tu tập song hành để đạt đến sự hoàn thiện trong đạo Phật. Theo kinh Pháp Bảo Đàn, việc tu tập công đức là quan trọng hơn việc cầu phước, vì công đức liên quan đến việc thực hành chánh pháp và giác ngộ nội tâm. Điều này không có nghĩa là phước đức không quan trọng, nhưng nó chỉ là bước đầu trong hành trình tu tập, trong khi công đức là mục tiêu cuối cùng để đạt đến giải thoát và niết bàn.

 


Pháp sư Tịnh Không

Thứ Tư, 17 tháng 4, 2024

Con đường thoát khổ

Trong giáo lý Phật giáo, khổ đau được xem là một phần không thể tách rời của cuộc sống. Đức Phật đã giảng dạy về Tứ diệu đế, mở đầu bằng sự thật về khổ đau (Dukkha), và tiếp theo là nguyên nhân của khổ đau, sự chấm dứt khổ đau, và con đường dẫn đến sự chấm dứt khổ đau, hay còn gọi là Bát chánh đạo. Bát chánh đạo là hướng dẫn thực hành để đạt được giải thoát và giác ngộ, bao gồm việc sống đúng đắn, tu tập đúng đắn, và phát triển trí tuệ đúng đắn. Trong quá trình tu tập, người Phật tử học cách nhận thức và giải thoát khỏi các uẩn, những yếu tố cấu thành nên cá nhân, để từ đó thoát khỏi vòng luân hồi của sanh, già, bệnh, chết. Sự giác ngộ không chỉ là kiến thức lý thuyết mà còn là trải nghiệm thực tế, một hành trình của cá nhân mỗi người trong việc hiểu biết và áp dụng giáo lý vào cuộc sống hàng ngày. 

Chỉ nói một nội dung thế nào là khổ và làm sao thoát khổ. Bài kình đầu tiên là kinh chuyển pháp luân khi đức phật mới thành đạo. Cái gì là có sanh có già , bệnh chết. cái gì có sự hiện hữu của 5 uẩn Cái khổ ở đây chỉ là 1/3 định nghĩa trong kinh tạng. Tất cả sự có mặt làm khó chịu đó là khổ khổ và ngoại khổ là sự vắng mặt làm cho chúng ta cảm giác ngọt ngào sung sứong thì cũng là khổ.thứ ba là hành khổ đó là bất cứ khi ta hiện hữu và lệ thuộc vào các điều kiện để có mặt  thì đều khổ. Như vậy không có gì hiện hữu trên cõi đời này. Tất cả cho dù tốt hay xấu là không nên có gì cả học thuyết bản thần thiện ác cũng là phù du. cái phù du này sẽ lập đi lập lại thì không cần thiết. Trong vô lượng chúng sinh có người thấy sẽ là đại trí và thương cho người không thấy thì đại bi. lấy cái đại trí đại bi này mà huân tập thì ở một thời điểm nào đó các hạnh lành này sẽ đạt đến hoàn mỹ thì cá nhân này được gọi là Phật, ai có đủ duyên lành sẽ được nghe và giác ngộ. còn không dủ duyên thì ta sẽ hết khổ và có an lạc. Phât Pháp chỉ dành cho một hạng người nếu chịu học phật.

Biết phật pháp để trở nên có trí tuệ. tôi là ai tôi là cái gì trong trời đất. cái thế giới mà tôi đang có mặt là gì. bản chất nó là cái gì tôi từ đâu tới và sẽ đi về đâu. Thiện ác buồn vui cái phàm và cái thánh đều không nên có và tất cả đều là vô thường. Đối với người Việt, việc học và thực hành Phật pháp không chỉ giới hạn trong cộng đồng tu sĩ mà còn lan rộng đến mọi người, với mong muốn tìm kiếm sự an lạc và giải thoát trong cuộc sống. Đây là một hành trình tâm linh sâu sắc, nơi mỗi bước đi đều mang lại sự hiểu biết sâu hơn về bản thân và thế giới xung quanh.


Phỏng theo pháp thoại sư Toại Khanh

Thứ Ba, 16 tháng 4, 2024

Nhìn thấu và buông xuống



Trong giáo lý đạo Phật, "nhìn thấu và buông xuống" không chỉ là một triết lý mà còn là một phương pháp tu tập giúp con người đạt được sự giải thoát và an lạc. Nhìn thấu, hay trí huệ, là khả năng nhận thức sâu sắc về thực tại, nhìn thấy bản chất thật của sự vật và hiện tượng mà không bị vướng bận bởi những hiểu biết sai lệch hay định kiến. Buông bỏ, hay công phu, là quá trình từ bỏ những ám ảnh, dục vọng và thói quen tiêu cực, qua đó giải phóng tâm trí khỏi những ràng buộc, đem lại sự thanh thản và tự do. Sự kết hợp giữa trí huệ và công phu trong việc nhìn thấu và buông bỏ chính là nền tảng để tiến bộ trên con đường tu tập, hướng tới sự giác ngộ và giải thoát khỏi luân hồi. Đây là một quá trình đòi hỏi sự kiên nhẫn, kiên trì và thực hành không ngừng nghỉ, nhưng cũng chính là chìa khóa mở ra cánh cửa của sự thấu hiểu và bình an nội tâm.


Trong các buổi pháp thoại của ngài Tịnh KHông lúc nào cũng nhắc đến bốn chữ "nhìn thấu buông xuống". Nhìn thấu trong đạo Phật đó là trí huệ bởi vì khi chúng ta nhìn thấu, chúng ta có khả năng hiểu rõ hơn về bản chất của mọi thứ xung quanh. Cho nên mới có câu "nhìn thấu là trí huệ mà buông xuống là công phu". Bài thuyết giảng sau đây của ngài Tịnh Không sẽ chỉ cho chúng ta lĩnh hội thêm về cách chúng ta "nhìn thấu và buông xuống"


Thông thường hai ngày đầu của Phật thất, tâm của người tham dự còn chưa an định, công phu không thể nào đắc lực. Đến ngày thứ bảy vì Phật thất gần kết thúc trong tâm lại phóng dật, buông lung trở lại, nên cũng không thể đắc lực. Do đó, niệm Phật trong bảy ngày, thật có thể đắc lực là trong ngày thứ năm và thứ sáu, đây là một hiện tượng rất bình thường.


Nguyên nhân người đời nay niệm Phật không bằng người đời xưa cũng là vì không thể “nhìn thấu, buông xả”. Chữ nhìn thấu (thấy thấu suốt) là trình độ hiểu rõ đối với trạng thái sinh hoạt đời sống gia đình xã hội hiện thực; nếu chúng ta không hiểu rõ, ham mê luyến tiếc thế gian thì đương nhiên sẽ không buông xuống nổi. Cho nên, hơn phân nửa những người niệm Phật vãng sanh là những người già bảy tám chục tuổi. Vì họ nhìn thấy nhiều, từng trải nhiều, biết hết thảy những việc trong thế gian đều là hư ảo không thật, bất luận sinh sống trong cảnh thuận hoặc nghịch, trải qua một thời gian dài thì sẽ chán chường, cảm thấy ngán ngẫm mệt mỏi chán ghét, không muốn ở lại thêm nữa, đến lúc này thì buông xuống hết, đấy là một yếu tố rất quan trọng. Nếu cảm thấy thế gian này còn rất đẹp đẽ, vẫn còn muốn sống thêm vài năm nữa, thậm chí muốn sống thêm vài chục năm, vài trăm năm nữa, thì công phu làm sao có thể đắc lực cho được! Phật pháp nói đến chuyện giác ngộ tức là giác ngộ việc nhìn thấu buông xuống này.


Mọi người đều biết chuyện đời vô thường, biết chuyện trong đời không có gì chẳng là nhân duyên quả báo cả, nhưng hiểu không được chắc thật, không cụ thể. Đức Phật nói những người trong nhà như cha con, chồng vợ, anh em, đều có quan hệ báo ân, báo oán, đòi nợ hoặc trả nợ nên mới ở chung một nhà. Vì thế lục đạo luân hồi chỉ là ân ân oán oán báo đền lẫn nhau mà thôi. Chúng ta hiểu được thì sẽ buông xả, biết được thế gian này là vô thường là cõi tạm có gì để bám víu.


Chư Phật Bồ Tát nhìn thấy rõ ràng, chỉ cho chúng ta một con đường quang minh rộng lớn, đấy tức là Đại Thừa Phật pháp, cõi nước chư Phật ở thập phương. Trong pháp Đại Thừa các Ngài lại nói cho chúng ta biết một pháp môn đặc biệt. Trong số các cõi nước chư Phật thì cõi Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà là cõi nước thù thắng tốt đẹp nhất.


Cả đời xưa và đời nay, những người thực hành theo phương pháp này được vãng sanh rất nhiều. Chúng ta hãy quan sát điều kiện của họ. Nói chung so với chúng ta thì không khác gì mấy, không tốt hơn chúng ta nhiều lắm nhưng quan trọng nhất là họ có lòng tin vững chắc, nguyện vọng khẩn thiết, buông xả hết thảy, chắc thật niệm Phật. Họ đã làm được điểm này, trên phương diện này chúng ta còn rất kém, chúng ta phải nỗ lực học tập theo gương xưa.


Hãy nhớ rằng cuộc sống luôn thay đổi, và việc nhìn thấu và buông xuống sẽ giúp bạn duy trì sự linh hoạt và sẵn sàng đối mặt với những thách thức mới. 


Nam Mô A Di Đà Phật.


Hòa Thượng Tịnh Không

Thứ Hai, 15 tháng 4, 2024

Vô Minh

 Trong giáo lý Duyên Khởi của Phật giáo, cuộc luân hồi của vạn loại chúng sinh là một vòng tròn khép kín, không có chỗ bắt đầu hay kết thúc. Từ đó, bất cứ mắt xích nào trong 12 Duyên Khởi cũng có thể là chỗ bắt đầu. Vô Minh hay Xúc, Thọ, Ái, đều được cả. Đức Phật luôn tùy duyên mà thuyết pháp.


Nhưng có thể nói rằng cách chọn Vô Minh làm mắt xích đầu tiên để nói về dòng sinh tử vẫn là hình thức phổ biến, nổi tiếng, được nhớ đến nhiều nhất. Lý do ư? Chỉ vì như đã nói, cái mơ hồ trong nhận thức rõ ràng là một tâm điểm quan trọng trong bất kỳ sự tình rối rắm nào trong đời. Trong giáo lý nguyên thủy, tất cả phàm phu cứ mang cái chủng tử dại khờ ngộ nhận làm hành trang đi khắp muôn cõi. Nỗi dại khờ đó cứ như con rắn trong Thánh Kinh đã xui Adam và Eva ăn trái cấm. Tôi thờ Phật nên dĩ nhiên chẳng tin chuyện đó, nhưng rất lấy làm thú vị khi biết thêm rằng con rắn kia trong Thánh Kinh là một biểu tượng của cái gọi là trí khôn. Nó khôn nhưng xúi người khác làm bậy. Vô Minh trong Phật giáo hình như cũng vậy. Đó là cái khả năng bương chải, quơ quào của chúng sinh như là một phản ứng tất nhiên trước những niềm đau nỗi khổ. Khi khổ quá, loài nào cũng tận lực bật dậy để tìm lối thoát. Nhưng trước sau chỉ là những lối thoát tạm bợ: Hoặc gây tạo ác nghiệp để đi vào ác đạo, hoặc tu nhân tích đức để sống hưởng thụ hạnh phúc nhân thiên, hay có khá hơn một tí là ly dục tu thiền để về Phạm cung sống lãng quên đời. Mãn thọ về trần thì đâu lại vào đó.


Nói tóm lại "Vô Minh" hay còn gọi là "bất giác", được xem là nguyên nhân sâu xa của chuỗi luân hồi không ngừng nghỉ, nơi mà chúng sinh không ngừng tái sinh trong sáu cõi. Vô Minh không chỉ là thiếu hiểu biết hay ngu dốt đơn thuần, mà còn là sự thiếu nhận thức đúng đắn về bản chất thực sự của sự vật và hiện tượng, dẫn đến các hành động sai lầm và khổ đau. Nó là điểm khởi đầu của "Thập nhị nhân duyên", một chuỗi các nguyên nhân và điều kiện liên kết với nhau tạo nên sự tồn tại. Vô Minh mở đường cho Xúc (tiếp xúc), Thọ (cảm thọ), Ái (thèm muốn), và các khâu khác theo sau, tạo nên vòng tròn tái sinh không dứt. Đức Phật giảng dạy rằng, thông qua tu tập và giác ngộ, chúng ta có thể chấm dứt chu trình này, đạt đến Niết Bàn, trạng thái giải thoát khỏi mọi khổ đau và tái sinh. Đây là một trong những tư tưởng cốt lõi của Phật giáo, nhấn mạnh sự quan trọng của việc phát triển trí tuệ và lòng từ bi để vượt qua sự mê mờ và đau khổ.


Những lối thoát đó đều do Vô minh mà ra cả.


Pháp thoại sư Toại Khanh

Chủ Nhật, 14 tháng 4, 2024

Hạnh phúc là gì?

 

Chúng ta đi tìm kiếm hạnh phúc nhưng lại không hiểu rỏ "hạnh phúc" thật sự là gì. Đã có rất nhiều định nghĩa cho trạng thái của hạnh phúc và thành tựu của nó cũng rất khác nhau của mỗi con người và của mỗi nền văn hóa tôn giáo tuy rất khó nắm bắt nhưng nên được trân trọng, là một khía cạnh sâu sắc trong trải nghiệm của con người.


Về cốt lõi, hạnh phúc mang tính chủ quan là một cảm giác vượt lên trên niềm vui hay sự hài lòng đơn thuần; đúng hơn, nó thể hiện một cảm giác hài lòng, thỏa mãn và niềm vui sâu sắc.  Điều mang lại niềm vui cho một người rất không giống nhau. Thí dụ như khi bạn đói chỉ cần có bữa cơm no là hạnh phúc. Người nông dân khi thu hoạch đựoc một vụ mùa tốt lành là hạnh phúc. Nhưng có những người hạnh phúc của họ đong đếm nhiều hơn thí dụ khi họ có căn nhà nhỏ thì họ không vui và phải có căn nhà lớn hơn, một chiếc xe đẹp hơn hoặc là con cái của họ phải thành công hơn con của người khác. Đối với một số người, hạnh phúc có thể được tìm thấy trong những niềm vui đơn giản như dành thời gian cho những người thân yêu, tận hưởng cảnh hoàng hôn tuyệt đẹp hoặc thưởng thức một bữa ăn ngon sau giờ làm việc. Những người khác có thể cảm thấy hạnh phúc từ việc đạt được mục tiêu cá nhân, theo đuổi đam mê làm những công việc thiện lành hoặc có những đóng góp có ý nghĩa cho xã hội.


Nghiên cứu tâm lý cho thấy hạnh phúc bị ảnh hưởng bởi sự kết hợp của các yếu tố bên trong và bên ngoài. Các yếu tố bên trong như tư duy, khả năng phục hồi và trí tuệ cảm xúc đóng một vai trò quan trọng trong việc hình thành khả năng hạnh phúc của một người. Nuôi dưỡng một cái nhìn tích cực, thực hành lòng biết ơn và nuôi dưỡng các mối quan hệ lành mạnh đều là những thành phần thiết yếu để có một cuộc sống trọn vẹn.


Các yếu tố bên ngoài, bao gồm tình trạng kinh tế xã hội, sức khỏe và điều kiện môi trường, cũng tác động đến hạnh phúc ở một mức độ nào đó. Mặc dù những yếu tố này chắc chắn có thể ảnh hưởng đến hạnh phúc của một người, nhưng nghiên cứu cho thấy chúng không phải là yếu tố duy nhất quyết định hạnh phúc. Mọi người thuộc mọi tầng lớp xã hội, bất kể hoàn cảnh, đều có khả năng trải nghiệm hạnh phúc.

Hơn nữa, hạnh phúc không phải là một trạng thái tĩnh mà là một hành trình năng động và phát triển. Việc mỗi người trải qua những biến động về tâm trạng và sức khỏe trước những thăng trầm không thể tránh khỏi trong cuộc sống là điều bình thường. Học cách vượt qua thử thách bằng khả năng phục hồi, tìm kiếm sự hỗ trợ khi cần thiết và thực hành cách tự chăm sóc bản thân là những chiến lược quan trọng để duy trì hạnh phúc lâu dài.

Trong thế giới nhịp độ nhanh và thường xuyên căng thẳng ngày nay, việc theo đuổi hạnh phúc đôi khi có vẻ như là một mục tiêu khó nắm bắt. Áp lực phải thành công, lượng thông tin dồn dập liên tục và những yêu cầu của cuộc sống hiện đại có thể làm giảm khả năng tận hưởng và trân trọng khoảnh khắc hiện tại của chúng ta. Tuy nhiên, giữa sự hỗn loạn, điều cần thiết là phải nhớ rằng hạnh phúc không được tìm thấy ở những thành tựu bên ngoài hay của cải vật chất mà ở sự phong phú của đời sống nội tâm và mối liên hệ với người khác.

Cuối cùng, hạnh phúc là một hành trình cá nhân sâu sắc, được hình thành bởi những trải nghiệm, sự lựa chọn và mối quan hệ của chúng ta. Bằng cách nuôi dưỡng tư duy biết ơn, đón nhận những niềm vui và thử thách trong cuộc sống cũng như nuôi dưỡng những kết nối có ý nghĩa, chúng ta có thể bắt tay vào con đường hướng tới hạnh phúc và sự thỏa mãn lớn hơn. Chỉ cần chúng ta điều chỉnh các giá trị, mong muốn và hành động của chúng ta theo cách mang lại cảm giác hài hòa và an bình. Và khi làm như vậy, chúng ta không chỉ có thể nâng cao hạnh phúc của chính mình mà còn góp phần tạo nên một thế giới nhân ái và vui vẻ hơn cho tất cả mọi người. 

Thứ Bảy, 13 tháng 4, 2024

TỨ DIỆU ĐẾ (BỐN CHÂN LÝ CAO CẢ)


Tất cả các tôn giáo, nói chung, đều có động lực từ lòng từ bi và nhân ái. Mặc dù các tôn giáo thường có sự khác biệt lớn trên bình diện triết học, nhưng mục đích cơ bản cũng đại khái giống nhau, đó là mang đến sự tiến triển tốt đẹp. Dĩ nhiên, mỗi tín ngưỡng có những phương pháp đặc thù. Mặc dù các nền văn hóa dĩ nhiên khác nhau, nhưng chúng ta đang ngày càng đến gần nhau hơn, vì thế giới ngày càng thu nhỏ với sự tiến triển của ngành thông tin, tạo dịp tốt để chúng ta học hỏi lẫn nhau. Tôi cảm thấy điều này rất hữu ích.


Thí dụ, Thiên Chúa giáo có rất nhiều phương pháp rất thực tiễn và hữu ích để phụng sự nhân loại, nhất là trong lãnh vực giáo dục và y tế. Vì vậy, các tín đồ Phật giáo còn có nhiều điều cần học hỏi thêm về phương diện này. Đồng thời, Phật pháp có những phương pháp thiền định sâu xa và những lý luận triết lý mà các tín đồ Thiên Chúa cũng có thể học hỏi. Trong thời cổ đại ở Ấn Độ, các tín đồ Phật giáo và Ấn giáo học hỏi lẫn nhau rất nhiều.


Vì các hệ thống tôn giáo cùng có mục đích cơ bản là làm lợi lạc cho con người, vì vậy không có gì sai trái nếu chúng ta học hỏi lẫn nhau về mặt khuyết điểm, còn về mặt ưu điểm thì giúp chúng ta tôn trọng lẫn nhau; điều này khuyến khích sự hòa hợp và thống nhất. Vì lý do này, tôi sẽ nói sơ qua về những tư tưởng Phật giáo.


Căn bản của Phật pháp là Bốn Chân Lý Cao Cả (Tứ Diệu Đế) - những chân lý về khổ (khổ đế), nguồn gốc của khổ (tập đế), diệt khổ (diệt đế) và con đường diệt khổ (đạo đế). Tứ đế gồm có hai nhóm quả và nhân: đau khổ và nguồn gốc của đau khổ; sự chấm dứt đau khổ và con đường dẫn đến sự diệt khổ. Sự đau khổ giống như một căn bệnh; những điều kiện bên ngoài và bên trong tạo nên căn bệnh chính là nguồn gốc của đau khổ. Sự lành bệnh là sự chấm dứt nỗi đau khổ và những nguyên nhân gây khổ. Những phương thuốc trị bệnh là những con đường chân chính.


Lý do mà các quả, đau khổ và sự diệt khổ, theo thứ tự đi trước các nhân, nguồn gốc của khổ và con đường diệt khổ, là vì: Trước nhất, ta phải tìm ra căn bệnh, tức là khổ đế hay diệu đế thứ nhất. Nhưng nếu chỉ nhận diện ra căn bệnh thôi thì chưa đủ; muốn biết cần dùng thuốc gì thì phải biết nguyên nhân của căn bệnh. Vì vậy, chân đế thứ nhì của tứ diệu đế là nguyên nhân hay nguồn gốc của đau khổ.


Chỉ tìm ra nguyên nhân của căn bệnh thôi cũng chưa đủ, ta cần phải xác định xem có thể trị được bệnh hay không. Nhận thức rằng căn bệnh có thể chạy chữa được cũng tương tự như chân đế thứ ba, sự chấm dứt đau khổ và nguyên nhân của đau khổ.


Giờ đây, sự đau khổ mà không ai mong muốn đã được xác nhận; những nguyên nhân tạo khổ cũng đã được nhận diện; đúng vào thời điểm mà ta hiểu rằng căn bệnh có thể chữa trị được thì ta sẽ dùng những thứ thuốc chuyên trị bệnh này. Tương tự như vậy, nương tựa vào những con đường dẫn đến sự giải thoát đau khổ là một điều thiết yếu.


Trước tiên, điều quan trọng nhất là nhận diện được sự đau khổ. Khổ, nói chung, gồm có ba loại - khổ vì đau đớn (khổ khổ); khổ vì thay đổi (hoại khổ); và khổ thâm nhập khắp cùng do ngũ uẩn (hành khổ).


Khổ vì sự đau đớn là những cái khổ mà chúng ta chịu đựng về thể xác hay tinh thần, thí dụ như bị nhức đầu. Không những con người mà thú vật cũng mong ước được thoát khỏi cái khổ này. Có những phương cách để tránh khỏi một vài loại khổ này, thí dụ như uống thuốc, mặc đồ ấm vào và tránh xa nguyên nhân tạo ra đau đớn.


Loại thứ nhì, khổ vì thay đổi, là điều mà bề ngoài ta cho là lạc thú, nhưng nếu nhìn cho rõ, thì chỉ là sự đau khổ mà thôi. Lấy thí dụ như mua một chiếc xe mới là điều mà ta thường cho là thích thú. Khi mới có xe, ta rất vui vẻ, vừa ý và thỏa mãn, nhưng khi dùng nó thì vấn đề bắt đầu xảy ra. Nếu chiếc xe tự nó là một niềm vui sướng, thì khi càng sử dụng nguồn thỏa mãn này, lạc thú của ta phải tăng lên theo, nhưng điều này không diễn tiến như vậy. Khi được sử dụng nhiều, xe lại bắt đầu tạo ra sự rắc rối. Vì vậy, ta gọi đây là đau khổ vì thay đổi; sự thay đổi đã phát lộ bản chất khổ của sự vật.


Loại khổ thứ ba là nền tảng cho hai dạng đau khổ trước và biểu hiện của nó chính là tâm và thân ô nhiễm của chúng ta. Nó được gọi là khổ thâm nhập khắp cùng vì nó thâm nhập hay ảnh hưởng đến tất cả các loại chúng sinh trong luân hồi và do ngũ uẩn gây nên, vì vậy nó là nền tảng của đau khổ trong hiện tại và gây ra đau khổ trong tương lai. Không có cách nào tránh được loại khổ này, ngoại trừ bằng cách chấm dứt sự tái sinh liên tục.


Đây là ba loại khổ nên được nhận diện từ ban đầu. Như thế, không phải chỉ những cảm thọ được xem là khổ mà ngay cả những hiện tượng bên ngoài và bên trong, dựa trên đó mà những cảm thọ này phát sinh, cũng được xem là khổ; những dạng tâm thức và những trạng thái tâm thức đi kèm với cảm thọ cũng được xác định là khổ.


Nguồn gốc của những đau khổ này là gì? Dựa vào đâu mà khổ phát sinh? Nguồn gốc thứ nhất là nghiệp và nguồn gốc thứ nhì là phiền não; đây là chân đế thứ nhì trong tứ diệu đế; nguồn gốc thật sự của khổ. Nghiệp, hay hành động, đề cập đến những hành động ô nhiễm của thân, ngữ và ý. Từ quan điểm của bản chất hay thực thể, các hành động gồm có ba loại: đạo đức, vô đạo đức và trung hoà. Những hành động đạo đức là những nghiệp mang đến những quả vừa ý và tốt đẹp. Những hành động vô đạo đức là những nghiệp mang đến những quả đau khổ và tiêu cực.


Ba phiền não chính là si mê, tham ái và sân hận. Chúng gây ra nhiều loại phiền não khác như ghen ghét và ác cảm. Để chấm dứt những nghiệp hay hành động là nguyên nhân của khổ, điều cần thiết là phải chấm dứt những phiền não, tức là những nguyên nhân của nghiệp này. Vì vậy, giữa nghiệp và những phiền não, nguồn gốc chính của khổ chính là phiền não.


Khi ta tự hỏi những phiền não có thể loại bỏ được hay không, ta đã quan tâm đến diệu đế thứ ba, tức diệt đế. Nếu những phiền não có sẵn trong bản tính của tâm thì ta sẽ không thể nào loại bỏ chúng. Thí dụ, nếu sân hận thuộc về bản tính của tâm, thì bất cứ lúc nào tỉnh thức ta cũng sân hận, nhưng điều này hiển nhiên là không đúng. Đối với sự tham ái ta cũng lý luận tương tự. Do đó, bản tính của tâm và ý thức được xem là không bị ô nhiễm bởi những ô trược. Các ô trược có thể dễ bị loại bỏ và tách biệt khỏi tâm cơ bản.


Điều hiển nhiên là những tâm thái tốt mâu thuẫn với những tâm thái xấu. Thí dụ, tình thương và sự giận dữ không thể nào nảy sinh cùng lúc trong cùng một người. Khi ta đang giận một đối tượng, ta không thể thương yêu đối tượng này trong cùng lúc; tương tự như thế, khi ta đang cảm thấy thương yêu, ta không thể giận dữ trong cùng một lúc. Điều này cho thấy rằng hai loại tâm thức này khai trừ và mâu thuẫn với nhau. Do đó, khi ta tập quen với một tâm thái, tự nhiên tâm thái trái ngược sẽ dần dần yếu đi. Đây là lý do vì sao qua việc thực hành và phát triển lòng từ và bi - mặt tốt của tư tưởng- mặt xấu sẽ tự động giảm bớt.


Bằng cách này, ta có thể khẳng định rằng những nguồn gốc của khổ có thể được loại bỏ dần dần. Với sự hoàn toàn hủy diệt của những nguyên nhân tạo khổ, ta có diệt đế. Đây là sự giải thoát cuối cùng – đích thực, an lạc vĩnh cữu và cứu độ. Đây là chân đế thứ ba của tứ diệu đế.


Ta nên tu tập theo con đường nào để đạt được diệt đế này? Vì những lỗi lầm bắt nguồn từ tâm, sự đối kháng phải được phát sinh trong tâm thức. Quả thật, ta cần hiểu biết sự hiện hữu tối hậu của vạn pháp, nhưng điều quan trọng nhất là biết được chân tướng tối hậu của tâm.


Trước tiên, ta cần phải nhận thức một cách mới mẽ, trực tiếp, hoàn toàn bất nhị nguyên về bản tính tối hậu của tâm một cách chính xác; đây là con đường thấy (kiến đạo). Giai đoạn kế tiếp là trở nên quen thuộc với nhận thức này; đây là con đường thiền định (tu tập). Trước hai giai đoạn này, điều thiết yếu là đạt được an định trong thiền định gồm hai phần, tức là sự hợp nhất của định và huệ. Trước điều này, nói chung, để có được một tâm thức đầy trí huệ vững mạnh, điều thiết yếu trước tiên là phát triển sự an định của tâm, gọi là định (tĩnh trụ).


Đấy là những giai đoạn của con đường, diệu đế thứ tư, cần thiết để thành tựu chân đế thứ ba, tức sự chấm dứt hai chân đế đầu, khổ và nguồn gốc của khổ. Tứ diệu đế là cấu trúc cơ bản trong tư tưởng và thực hành của Phật pháp.


Câu hỏi: Qua cái nhìn phiến diện, dường như có sự khác biệt giữa nguyên lý diệt dục trong Phật giáo và sự quan trọng ở Tây phương là đời sống phải có mục đích, ngụ ý rằng sự ham muốn là điều tốt.


Trả lời: Có hai loại ham muốn: Một loại thì phi lý và hòa lẫn với những phiền não. Loại thứ hai là loại mà ta thấy những gì tốt là tốt và cố đạt được nó. Loại ham muốn thứ nhì là đúng đắn và nhờ đó, một hành giả dấn thân vào sự tu tập. Tương tự như vậy, sự mưu cầu về tiến bộ vật chất, dựa trên nhận thức rằng nó có thể phụng sự nhân loại và vì vậy đó là một điều tốt, cũng là nhận thức đúng đắn.


Pháp thoại Đức Đạt-Lai Lạt-Ma Thứ 14 tại Đại Học Washington

Thứ Sáu, 12 tháng 4, 2024

Ăn chay và đạo Phật


Đức Phật không kêu gọi đệ tử phải ăn chay bởi vì ở thời điểm của ngài chuyện đi khất thực và nhận được thức ăn gì thì là món ăn của ngày hôm đó.Trong lịch sử Phật giáo, việc ăn chay không phải là một yêu cầu bắt buộc, nhưng nó đã trở thành một phần của thực hành tâm linh cho nhiều người theo đạo Phật. Tuy nhiên có 5 giới luật mà các tì kheo phải luôn tuân thủ đó là :

1-không sát sanh
2-Không nói dối
3-không tà dâm
4-Không uống các chất kích thích
5-không trộm cắp

Đức Phật đã dạy rằng lòng từ bi và sự kiềm chế là quan trọng, và việc ăn chay có thể được xem như một biểu hiện của những giáo lý này. Ngũ giới, hay năm giới luật, là những nguyên tắc cơ bản mà mỗi người theo đạo Phật nên tuân theo để sống một cuộc đời đạo đức và ý nghĩa.

Đức Đạt Lai Lạt Ma, một biểu tượng của lòng từ bi và hòa bình, đã sống một cuộc đời không thuần chay do điều kiện khí hậu và địa lý của Tây Tạng. Điều này cho thấy rằng việc ăn chay trong Phật giáo không phải là một quy tắc cứng nhắc, mà là một lựa chọn cá nhân dựa trên hoàn cảnh và khả năng của mỗi người. Trong thời đại hiện đại, nhiều người trẻ đã chọn lối sống "ăn xanh" để bảo vệ môi trường và thể hiện lòng thương yêu thú vât.

Phật giáo nhấn mạnh việc tự nhận thức và chuyển hóa bản thân thông qua việc tu tập và sống theo các giới luật. "A lại gia thức" là một khái niệm trong Phật giáo mô tả những hạt giống tâm linh bên trong mỗi người, và việc tu tập có thể giúp những hạt giống này phát triển thành tâm từ bi . Quyết định ăn chay là một phần của quá trình chuyển hóa này, giúp mỗi người tiến gần hơn đến sự giác ngộ .

Trong năm giới luật này thì giới luật thứ nhất "không sát sanh" đã gây ra tranh cải trong việc ăn chay hay ăn mặn.  Bởi vì chúng sanh nào cũng ham sống sợ chết cho nên xét lại lòng mình để đừng giết hại bất cứ con vật nào. Tuy nhiên từ đời đức Phật tại thế ngài đã nói rằng mỗi khi chúng ta nấu nước để uống thì chúng ta cũng đã vô tình giết chết rất nhiều sinh vật trong ly nước của mình,  vì không biết nên không thể gọi là phạm giới sát sanh . 

Như đã nói trên trong mỗi chúng ta đều có chủng từ gọi là "A lại gia thức" chủng tử này nếu chúng ta tôi luyên đều đặn mỗi ngày sẽ dần trổ quả gọi là tâm từ hay là tâm phật. Cho nên khi tôi quyết định bỏ chế độ ăn mặn để ăn chay đã giúp đỡ cho tôi rất nhiều trên con đường chuyển hóa bản thân. Bây giờ thì nó đã trở thành lối sống chủ đạo và khuyến khích tôi tìm hiểu thêm về Phật pháp. Tùy theo chủng từ của mỗi chúng ta mà nó sẽ hiển hiện sớm hay muộn trong cuộc đời mình. Không chỉ là chủng tử phật tánh mà còn hằng hà sa số những chủng tử khác có mặt trong ta để hình thành con người bên trong của bạn. Cuộc sống của chúng ta có thể kéo dài 80 năm, đường còn xa nên ta phải đi cách nào mà chỉ có thể đi lên mà không đi xuống.

Quay lại vấn đề ăn chay thì ăn thế nào cho đúng và cũng không nên cực đoạn. Ở giai đoạn sơ khai về đạo Phật thì "ăn thịt" đồng nghĩa với sát sinh. Tuy nhiên sau một thời gian tôi tìm hiểu thêm về đạo Phật thì điều quan trọng chính là "tâm ý " bên trong hơn các "hành động" và yếu tố bên ngoài.
Vậy để bổ xung vào giới luật " không sát sanh" thì đi kèm với những phần sau đây đó là :
1-Chúng sanh phải có thức tánh( các con vật còn sống )
2-Biết rỏ chúng sanh có thức tánh
3-Có tác ý, khởi tâm muốn giết chúng
4-Cố ý muốn giết các chúng sanh này( hành động)
5-Chúng sanh chết vì mình giết

 
Nếu chúng ta phạm phải 5 điều trên thì chúng ta thực sự đã phạm giới sát sanh. tuy nhien thí dụ một người bị mù đi thiền hành và đạp phải những con vật như kiến thì người này phạm vào điều thứ 1 nhưng người này không phạm vào những điều còn lại nên không phải là sát sanh.

Toàn thể giáo lý đạo Phật chỉ quy về một ý chính đó là "tâm lành, tâm trong sạch". Thí dụ như bạn phải đối diện với một tình huống là người thân của bạn bị bệnh rất nặng đang đau đớn quằn quại và họ chỉ muốn được chấm dứt sự đau khổ này và họ nhờ bạn giúp họ làm điều này. Hành động này tuy là phạm vào điều thứ tư nhưng lại mang một tâm từ( hiện này chính phủ đã cho phép bênh nhân đựoc chọn lựa cái chết này cho mình, nên chúng ta phải thảo luận với nhau để tránh phải là người quyết định chuyện này ).

Phật giáo khi luận về thiện ác đều dựa vào tâm địa mà ra chứ không chú trọng vào hình tướng đã làm. Có khi việc làm thì xem ra lành nhưng trong tâm lại là ác niệm "chiếc áo không làm nên thầy tu" là vậy. Có những người khi ăn chay họ rất khó chịu khi có ai đó ăn mặn và đụng vào món ăn của họ thì hành động "khó chịu " này không có liên quan gì đến 5 điều kể trên mà chỉ vì họ đang tự mình chấp vào hình tướng bên ngoài từ đó gây ra những trạng thái không tốt cho tâm. Thì đây cũng đã phạm vào một dạng gọi là "tà kiến"chỉ vì không hiểu đúng để có " chánh kiến " khi ăn chay.

Cuộc sống là một hành trình dài, và mỗi bước đi đều quan trọng trong việc hình thành nhân cách và tâm hồn của chúng ta. Việc ăn chay không chỉ là một lựa chọn về thực phẩm, mà còn là một phần của hành trình tâm linh, giúp chúng ta sống một cuộc đời đạo đức và hướng thiện. Đối với những ai quyết định theo đuổi lối sống này, việc ăn chay đúng cách và không cực đoan là quan trọng, để đảm bảo sức khỏe và sự cân bằng trong cuộc sống, cũng như trong việc tuân theo giáo lý của Đức Phật. Cho nên ăn chay là để phát triển "tâm từ" và cốt lõi của tu tập là chuyển hóa "tham, sân,si " chứ không phải để chúng ta khó tính hơn thì chúng ta chỉ đang "ăn bằng miệng" chứ không phải "ăn bằng tâm".



Thứ Năm, 11 tháng 4, 2024

Tà Kiến và Chánh kiến là gì?

 Tà Kiến là gì?

Tà kiến: Là sự thấy sai chấp lầm từ chủ thể bên trong mình đến các đối tượng bên ngoài.

Tà kiến có 2 loại:

1- Tà kiến chấp ngã trong ngũ uẩn chấp thủ.

2- Tà kiến chấp thủ cố định.

Ngũ uẩn chấp thủ có 5 uẩn là: Sắc (thân), Thọ (cảm xúc ở tâm và cảm giác ở thân), Tưởng (phân biệt, suy xét), Hành (phản ứng, tác ý), Thức (Hay biết đơn thuần).

1. Tà kiến chấp ngã trong ngũ uẩn chấp thủ cho là ta (ngã) gồm có 4 loại:

– Ngũ uẩn là ta

– Ta có ngũ uẩn.

– Ngũ uẩn trong ta

– Ta trong ngũ uẩn.

– Tất cả chúng sinh có ngũ uẩn trong 11 cõi dục giới.

– Tất cả Phạm Thiên có ngũ uẩn trong 15 tầng trời Sắc Giới Phạm Thiên (trừ Vô Tưởng Thiên).

– Tất cả Phạm Thiên có nhất uẩn là sắc uẩn trong tầng trời Sắc Giới Phạm Thiên Vô Tưởng Thiên.

– Tất cả Phạm Thiên có tứ uẩn là Thọ uẩn, Tưởng uẩn, Hành uẩn và Thức uẩn trong 4 tầng trời Vô Sắc giới Phạm Thiên.


Tất cả mọi phàm nhân đều có Tà kiến chấp ngã trong ngũ uẩn chấp thủ cho là ta. Tà kiến này không ảnh hưởng, hay cản trở những người tạo mọi phước thiện như bố thí, giữ giới, hành thiền,… cũng không cản trở các hành giả thực hành Thiền Định đạt các tầng thiền và phép thần thông thế gian.


Tà kiến chấp ngã trong ngũ uẩn chỉ cản trở Pháp Hành Thiền Tuệ, bởi vì đối tượng Thiền Tuệ là ngũ uẩn có thực tánh là Pháp vô ngã, không phải là ta, là người,… nhưng Tà kiến chấp ngã trong ngũ uẩn chấp thủ cho là ta, là người, …

2. Tà kiến chấp thủ cố định gồm có 3 loại: Vô quả, Vô nhân và Vô hành.

– Vô quả tà kiến: Thấy sai chấp lầm rằng không có quả của nghiệp, không có quả khổ của ác nghiệp, không có quả lành của thiện nghiệp, chết là hết, không có kiếp sau, gọi là Đoạn Kiến.

– Vô nhân tà kiến: Chấp rằng không có nhân cho ra quả, không có ác nghiệp cho ra quả khổ, không có thiện nghiệp cho ra quả lành; tất cả mọi chúng sinh đều tự nhiên hiện hữu (không phải do nghiệp), tự nhiên ô nhiễm, thanh tịnh,…. và tự nhiên giải thoát.

– Vô hành tà kiến: Thấy sai chấp lầm rằng không có hành ác, không có hành thiện; người tạo ác nghiệp không gọi là hành ác; người tạo thiện nghiệp không gọi là hành thiện. Hành chỉ là hành mà thôi.

Trong tất cả mọi loại ác nghiệp, chỉ có 3 loại ác nghiệp tà kiến chấp thủ cố định này là trọng tội nặng nhất, hơn cả ngũ nghịch đại tội (giết cha, giết mẹ, giết vị A La Hán, làm thân Đức Phật chảy máu, chia rẽ Tăng Đoàn). Bởi vì người có ác nghiệp tà kiến chấp thủ cố định này hoàn toàn phủ nhận và không tin nghiệp và quả của nghiệp. Vì vậy, họ không tin Phật Pháp, không biết hổ thẹn, ghê sợ và sám hối tội lỗi của mình, nên không từ bỏ ác nghiệp tà kiến chấp thủ cố định này. Để rồi họ ngày càng lún sâu vào tội lỗi. Sau khi chết, chắc chắn ác nghiệp này có quyền ưu tiên cho quả khiến họ tái sinh kiếp sau trong cõi đại địa ngục Avīci, phải chịu quả khổ lâu dài trải qua nhiều đại kiếp trái đất, không có thời hạn.

Tà kiến phát sinh do nguyên nhân nào?

1- Lắng nghe tà Pháp từ hạng người có tà kiến.

2- Hiểu biết sai với si tâm, không biết đúng 4 trạng thái của Pháp hữu vi (Vô thường, Khổ, Vô ngã, Bất tịnh).

Chánh kiến là gì?

Chánh kiến là sự hiểu biết đúng về nghiệp là của riêng mình, tin hiểu nghiệp quả rằng ngoài nghiệp ra, không có tài sản nào trong đời thuộc về riêng mình thật sự, thậm chí ngay cả thân xác này cũng không phải của riêng mình, vì nó không theo ý muốn của mình, mà chỉ tùy thuộc vào nhân duyên.

Chánh kiến phát sinh do nhân nào?

1- Lắng nghe Chánh Pháp từ các bậc thiện trí.

2- Hiểu biết trong tâm với trí tuệ biết đúng 4 trạng thái của Pháp hữu vi (Vô thường, Khổ, Vô ngã, Bất tịnh).

Chánh kiến gồm có 5 loại:

1- Chánh kiến sở nghiệp biết đúng, tin nghiệp và quả của nghiệp thuộc về riêng mình.

2- Chánh kiến Thiền Tuệ là trí tuệ Thiền Tuệ tam giới (của phàm nhân) thấy biết rõ thật tánh sinh diệt và tam tướng (Khổ, Vô thường, Vô ngã) của Danh Pháp, Sắc Pháp.

3- Chánh kiến Thánh Đạo Tuệ là trí tuệ Thiền Tuệ siêu tam giới (của Thánh Nhân) chứng đắc 4 Thánh Đạo.

4- Chánh kiến Thánh Quả Tuệ là trí tuệ Thiền Tuệ siêu tam giới (của Thánh Nhân) chứng đắc 4 Thánh Quả.

5- Chánh kiến quán triệt là trí tuệ quán triệt Đạo, Quả, Niết Bàn, phiền não đã diệt tận, phiền não chưa diệt tận.


Chánh kiến hỗ trợ tạo mọi thiện Pháp với thiện tâm hợp với trí tuệ, có đủ 3 thiện nhân là Vô tham, Vô sân và Vô si (trí tuệ), cho phước thiện ấy trở thành Tam nhân thiện nghiệp, cho quả tái sinh thành người Tam nhân ở cõi người hoặc 1 trong 6 cõi Dục thiên, hưởng lạc và có thể tu chứng Thiền, đắc Thánh.

Qua bài viết trên chúng ta có thể thấy rỏ Tà Kiến và Chánh Kiến là hai khái niệm quan trọng trong Phật giáo, đặc biệt liên quan đến việc nhận thức và quan điểm về thế giới và bản thân. Tà Kiến, hay những quan điểm sai lầm, là sự hiểu biết sai lệch về bản chất của sự vật và hiện tượng, thường dẫn đến sự chấp ngã và các hành động không phù hợp với chân lý. Ngược lại, Chánh Kiến là sự nhận thức đúng đắn, một phần của Bát Chánh Đạo, giúp người tu hành nhìn nhận mọi sự vật một cách chân thực, không bị méo mó bởi các định kiến hay suy diễn cá nhân. Việc phát triển Chánh Kiến giúp hành giả tiến gần hơn đến sự giác ngộ và giải thoát, bởi nó loại bỏ sự mê muội và hiểu lầm, mở đường cho trí tuệ và sự thấu hiểu sâu sắc về quy luật Nhân quả-Nghiệp báo và thực tính Duyên khởi của các pháp. Đây là những nền tảng cơ bản giúp người con Phật có thể chuyên tâm tu hạnh, hướng đến cuộc sống an lạc và hạnh phúc thực sự. Chúng ta là người con Phật cũng nên tìm hiểu thuật ngữ này thật rốt ráo là gì để cùng nhau chuyên tâm tu hành.


Trích trong Giáo lý A Tì Đàm

Thứ Tư, 10 tháng 4, 2024

ĐỪNG QUÊN CÁM ƠN !

 1. Một vị tổng thống hỏi bà cụ sống 104 tuổi về bí quyết sống lâu. Bà trả lời: một là dí dỏm, hai là học biết cám ơn. Lấy chồng từ năm 25 tuổi, ngày nào bà cũng nói nhiều nhất là hai chữ "cám ơn". Bà cám ơn chồng, cám ơn bố mẹ, cám ơn con cái, cám ơn hàng xóm láng giềng, cám ơn mọi sự quan tâm săn sóc dành cho bà, cám ơn từng ngày sống yên lành, ấm cúng và vui vẻ. Mọi lời nói thân thiết của người khác đối với bà, mọi việc làm bình thường nhỏ nhoi dành cho bà, mọi nét mặt tươi cười hỏi thăm bà, bà đều không quên nói hai tiếng "cám ơn". Mọi người không những không ngán đối với vô số lần cám ơn hàng ngày của bà, trái lại càng gần gũi thương yêu bà, thường cảm thấy nếu mình không thương yêu bà hơn nữa, sẽ có lỗi với từng lời "cám ơn" của bà... 80 năm đã trôi qua, hai tiếng "cám ơn" khiến bà vui vẻ lâu dài, hạnh phúc lâu dài, mạng sống lâu dài, "cám ơn" có bao nhiêu, tình yêu có bấy nhiêu. Tình yêu có ngần nào, "cám ơn" có ngần nấy. 


2. Một lần đi xe buýt về nhà, trước mắt tôi có một cô bé 7,8 tuổi, lưng đeo cặp sách, hình như vừa tan học. Khi lên xe em bước không vững suýt nữa ngã. Tôi vội vàng đỡ em một tay. Vừa đứng vững em giơ tay ra hiệu, không biết em định nói gì với mình. Thấy tôi không hiểu em rất bối rối. Ngồi được một bến, tôi sắp sửa xuống xe. Cô bé vội vàng chạy đến nhét vào tay tôi một mẩu giấy. Tôi cứ tưởng có chuyện gì, ai ngờ xuống xe nhìn mẩu giấy, chỉ thấy một dòng chữ xiêu vẹo "cám ơn, cám ơn chú!" Thì ra em bị câm điếc. Không hiểu sao trái tim tôi bỗng trào lên một tình cảm nóng bỏng không sao miêu tả nổi.

3. Có một truyền thuyết kể rằng: Có hai người cùng đi gặp Thượng Đế hỏi lối đi lên Thiên Đường. Thấy hai người đói lả, Thượng Đế cho mỗi người một suất cơm. Một người nhận suất cơm, cảm động lắm, cứ cám ơn, cám ơn rối rít. Còn người kia nhận suất ăn, không hề động lòng, cứ làm như cho anh ta mới phải. Về sau, Thượng Đế chỉ cho người nói "cám ơn" lên Thiên Đường. Còn người kia bị từ chối, đứng ngoài cổng.
Kẻ bị từ chối đứng ngoài cổng không phục:
- Chẳng lẽ chỉ vì tôi quên nói "cám ơn"?
Thượng Đế trả lời:
- Không phải quên. Không có lòng cám ơn, không nói ra được lời cám ơn. Người không biết cám ơn, không biết yêu người khác, cũng không được người khác yêu.
Anh chàng kia vẫn không phục:
- Vậy nói thiếu hai chữ "cám ơn" cũng không thể chênh lệch đến thế?
Thượng Đế đáp:
- Biết làm thế nào được, bởi vì lối lên Thiên Đường rải bằng lòng cám ơn. Cửa lên Thiên Đường chỉ có dùng lòng cám ơn mới mở được. Còn địa ngục thì khỏi cần.

Phương pháp tìm bình yên trong cuộc sống


Chúng ta đang sống trong một thế giới đầy bất trắc vì mọi người đều cùng mong muốn tranh dành đấu đá lẫn nhau trên thương trường.Tìm kiếm bình yên trong cuộc sống là một hành trình đầy ý nghĩa và giá trị. Để đạt được điều này, việc rèn luyện những đức tính tốt là vô cùng quan trọng. Tránh xa những cuộc tranh cãi không cần thiết sẽ giúp tâm hồn bạn thanh thản hơn, bởi lẽ không phải mọi cuộc tranh luận đều đáng để bạn đánh đổi sự bình yên trong tâm hồn. Ngừng phán xét người khác cũng là một bước tiến quan trọng trên con đường tự hoàn thiện bản thân, vì mỗi người đều có những giá trị riêng biệt và không ai hoàn hảo cả. 


Biết ơn và thể hiện lòng biết ơn qua những lời cảm ơn chân thành không chỉ làm cho người khác cảm thấy được trân trọng, mà còn giúp chúng ta nhận ra và quý trọng những điều tốt đẹp xung quanh mình. Nụ cười là liều thuốc tinh thần vô giá, mang lại niềm vui và sự lạc quan cho cả bản thân và những người xung quanh. Đừng để lo lắng về tương lai làm mất đi những khoảnh khắc quý giá của hiện tại, bởi vì cuộc sống luôn chứa đựng những điều bất ngờ và chúng ta chỉ có thể sống trọn vẹn từng phút giây.


Đầu tư vào bản thân, học hỏi những điều mới mẻ, phát triển kỹ năng và kiến thức sẽ giúp bạn tự tin hơn và đối mặt với thách thức một cách dũng cảm. Tha thứ cho người khác không chỉ giải phóng họ khỏi lỗi lầm, mà còn giúp chúng ta giải phóng bản thân khỏi gánh nặng tinh thần. Đừng quá khắt khe với chính mình khi mắc phải sai lầm, vì mỗi lỗi lầm đều là bài học quý giá giúp chúng ta trưởng thành hơn. Trên đường đời có ai mà không gặp lúc khó khăn. Làm hòng việc một vài lần là bình thường. Đừng vì vậy mà cứ trách hoài bản thân 


Ngoài ra giữ gìn nhà cửa sạch sẽ có thể giúp bạn có cuộc sống bình yên bởi vì nó giúp giảm nguồn gốc gây khó chịu tiềm ẩn như rác, vết bẩn, vết đốm và một số mùi ẩm mốc gây ra. Có đôi lúc khi bạn cảm thấy cơn phiền muộn sắp ập đến , thì hảy đứng lên và vệ sinh nơi bạn ở. Điều này sẽ giúp bạn quên đi thời gian và bạn sẽ cảm thấy dễ chịu hơn khi nhìn thấy sự sạch sẽ gọn gàng chung quanh bạn. Việc duy trì một không gian sống sạch sẽ và gọn gàng không chỉ tạo ra môi trường tốt cho sức khỏe thể chất, mà còn mang lại sự bình yên cho tâm hồn. Những hành động nhỏ như vậy có thể tạo nên những thay đổi lớn trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta.


Hãy nhớ rằng, bình yên không chỉ là một trạng thái, mà còn là một lựa chọn mà chúng ta có thể quyết định mỗi ngày 




Biết Trách Ai Đây?

 Khi đọc xong bài viết “Biết Trách Ai Đây?” của sư Toại Khanh là một tùy bút đậm chất suy tư, chất chứa nỗi niềm trước cảnh đời éo le, những...