Thứ Bảy, 31 tháng 8, 2024

Đức Phật nói gì về việc ăn thịt

 

Ngay từ lúc đạo Phật được thành lập hơn 2500 năm về trước, các Tăng Ni vẫn sống nhờ vào việc khất thực. Trước kia và hiện giờ cũng vậy, họ không được phép trồng tỉa lấy lương thực, không được tích lũy thực phẩm, cũng như không được tự nấu nướng thức ăn. Thay vào đó, mỗi buổi sáng họ dùng bữa của mình bằng cách sử dụng bất kỳ thứ gì các Phật Tử đã tự nguyện dâng cúng cho họ. Cho dù thức ăn có giàu năng lượng hay kém phẩm chất, khoái khẩu hay khó ăn, tất cả đều được họ chấp nhận với lòng tri ân và được xem như là dược phẩm để duy trì sự sống. Ðức Phật đã đặt ra nhiều giới luật ngăn cấm chư Tăng không được đòi hỏi thức ăn mà họ ưa thích. Kết quả là chư Tăng chỉ nhận các loại thực phẩm giống hệt như thức ăn người dân thường hay sử dụng — và thông thường thì các thực phẩm đó có chứa thịt cá.

Một lần nọ, có một vị tướng giàu có và đầy uy thế tên là Siha (nghĩa là “Sư tử”) đến thăm Ðức Phật. Tuớng quân Siha trước kia là đồ đệ hết lòng ủng hộ các tu sĩ Kỳ-na giáo; nhưng ông rất cảm động và cảm kích sau khi nghe những lời dạy của Ðức Phật, nên ngay trong buổi gặp gỡ đó, vị tướng này đã xin quy y Tam Bảo. Sau đó, tướng quân Siha mời Ðức Phật cùng với một số rất đông các vị chư Tăng đến nhà của ông trong thành phố để dùng cơm vào buổi sáng hôm sau. Ðể sửa soạn cho bữa cúng dường thức ăn đó, tướng quân Siha ra lệnh người đầy tớ đi mua một số thịt ở chợ để dùng vào dịp lễ này. Khi các vị tu sĩ Kỳ-na giáo nghe biết được sự quy y Phật Pháp của người bảo trợ cũ của họ và ông ta đang sửa soạn một bữa cơm cúng dường Ðức Phật cùng chư Tăng, họ trở nên bực tức và nói rằng:

“Từ nay sẽ có nhiều vị đạo sĩ Ni-kiền (tu sĩ Kỳ-na giáo) vẫy tay, than phiền từ đường xe ngựa này đến đường xe ngựa khác, từ khắp ngã rẽ này sang ngã rẽ khác trong thành phố, rằng: Ngày hôm nay tướng quân Siha đã giết một con vật béo, để dọn một bữa tiệc thiết đãi ẩn sĩ Cồ Ðàm (Ðức Phật). Ẩn sĩ Cồ Đàm đã cố ý ăn thịt từ con vật mà ông ta biết đã được giết để thiết đãi ông ta và các vị chư tăng đi theo; và việc này được thực hiện chỉ vì ông ta mà thôi” 


Thật ra, tướng quân Siha đã phân biệt rất hợp với đạo đức, giữa một bên là thịt mua tại chợ đã được giết mổ sẵn để bán và bên kia là mua một con vật còn sống và ra lệnh giết. Sự phân biệt này không mấy hiển nhiên đối với một số người Âu Mỹ, nhưng đã được ghi chép rất nhiều lần trong giáo lý của Ðức Phật. Thế rồi, để xác định rõ thái độ về việc ăn thịt cho chư Tăng, Ðức Phật dạy:


“Này chư Tỳ-kheo, Ta cho phép các vị dùng thịt cá trong ba truờng hợp sau đây: thịt này phải chưa được các vị nhìn thấy, các vị chưa được nghe biết, hoặc giả chư vị không có gì phải nghi ngờ là con vật đó đã được sát sanh chỉ nhằm mục đích thiết đãi cho chư vị. Nhưng các vị không được cố tình sử dụng thứ thịt đã được giết chỉ dành cho các vị sử dụng mà thôi.” 


Có nhiều đoạn trong Kinh điển Phật giáo cho thấy Ðức Phật và các vị chư Tăng của ngài được cúng dường thịt và các ngài cũng nhận để ăn. Một trong những đoạn kinh nầy được viết trong phần mở đầu câu chuyện liên quan đến một giới luật hoàn toàn không liên quan gì đến thịt (Ni-tát-kỳ Ba-dật đề, Xả đọa pháp, 5) và thoáng qua cho thấy thịt nói ở đây hoàn toàn chỉ là ngẫu nhiên đối với đề tài chính mà câu chuyện muốn nhấn mạnh đến tính xác thực của đoạn văn:


– Bà Uppalavanna (Liên hoa sắc) là một trong hai vị nữ đại đệ tử của Ðức Phật. Bà thọ giới tỳ-kheo-ni khi vẫn còn trẻ và chẳng bao lâu đã được giác ngộ hoàn toàn. Ngoài sự kiện bà là một vị A-la-hán, bà còn có nhiều uy lực thần thông đến độ chính Ðức Phật đã tuyên bố bà là người lỗi lạc nhất trong số tất cả các vị nữ đệ tử về mặt này. Một lần kia, trong khi bà Uppalavanna đang ngồi tham thiền một mình vào buổi trưa tại khu vườn “Người Mù”, trong một cánh rừng hẻo lánh bên ngoài thành Xá-vệ, có một vài tên cướp đi ngang qua đó. Mấy tên cướp vừa mới đánh cắp một con bò, giết con vật và chạy trốn với một ít thịt. Vừa nhìn thấy một vị ni sư tham thiền điềm tĩnh và nghiêm trang, tên cướp đầu sỏ đã nhanh nhẹn bỏ một ít thịt bò trong một cái bao làm bằng lá cây và để lại cho ni sư. Ni sư Uppalavanna nhặt miếng thịt bò lên và quyết định dâng cúng cho Ðức Phật. Ngay sáng sớm hôm sau, sau khi đã nấu thức ăn với thịt đó, bà cất mình lên không trung và bay tới nơi đức Phật đang ngụ, tại Trúc lâm bên ngoài thành Vương xá, và như thế Ni sư đã bay một quãng đường trên 200 kí-lô-mét. Mặc dù không nghe nói đến việc Ðức Phật đã thực sự sử dụng món thịt đó, nhưng rõ ràng là một ni sư có nhiều thần thông ắt hẵn bà đã biết Ðức Phật dùng món ăn nào.


Tuy nhiên cũng có một số thịt đặc biệt cấm các vị chư tăng không được sử dụng. Đó là: thịt người, vì những lý do đã quá rõ ràng; thịt voi và thịt ngựa vì trong thời kỳ đó, hai con vật này được coi là thú vật của nhà vua; thịt chó – vì dân chúng thường coi chó là con vật ghê tởm; thịt rắn, sư tử, cọp, báo, gấu và linh cẩu – vì người ta tin rằng ai ăn thịt những loài thú rừng nguy hiểm này sẽ toát ra một mùi đặc biệt có thể khiến cho các con vật đồng loại tấn công người đó để trả thù.


Vào cuối cuộc đời Ðức Phật, người anh họ của ngài tên là Devadatta (Đề-bà-đạt-đa) có ý định chiếm quyền lãnh đạo Tăng đoàn. Ðể có được hậu thuẫn của các vị khác, Devadatta đã cố gắng tỏ ra nghiêm khắc hơn cả Đức Phật và muốn chứng minh rằng Đức Phật có phần dễ duôi. Devadatta đề nghị với Ðức Phật là tất cả các vị Tăng Ni đều phải “ăn rau đậu” (“ăn chay trường”). Ðức Phật đã từ chối và một lần nữa Ngài nhắc lại một giới luật mà Ngài đã thiết lập nhiều năm về trước, qui định tất cả các Tăng Ni có thể ăn thịt hay cá, khi nào biết rõ thịt con vật đó không bị cấm sử dụng và khi họ không có lý do gì để nghi ngờ rằng con vật đó được giết đặc biệt dùng để chiêu đãi họ (Tam tịnh nhục).


Hồi đó, Luật đã đề cập rõ ràng đến vấn đề này. Các vị Tăng Ni có thể ăn thịt. Ngay cả Ðức Phật cũng đã dùng thịt. Tiếc thay, một số người Tây phương ngày nay thường xem việc ăn thịt đối với các vị Tăng Ni như là sự nuông chiều ưu đãi. Đó là một điều rất xa sự thật – vì tôi đã từng thực hiện việc “ăn chay trường” được ba năm trước khi trở thành một tu sĩ.


Trong năm đầu khi tôi tu học tại vùng Ðông Bắc Thái Lan, tôi đã phải cố gắng đối diện với nhiều bữa ăn chỉ có cơm nếp với ếch luộc (ăn toàn bộ cả thịt lẫn xương), hoặc với ốc sên dai như cao su, hoặc kiến càng nấu với cà-ri, hoặc châu chấu chiên dòn – tôi nghĩ có lẽ người “ăn chay” là người tốt phước hơn!


Nhân ngày Lễ Giáng Sinh đầu tiên tại miền Ðông Bắc Thái Lan, một người Mỹ đến thăm tu viện khoảng độ một tuần trước ngày 25 tháng 12. Thật khó có thể tin nổi, ông ta có một trại nuôi gà tây, và rồi, ông ta đã nhanh chóng nhận ra chúng tôi đang phải sống trong hoàn cảnh khổ sở như thế nào. Ông ta hứa sẽ đem đến cho chúng tôi một con gà tây để ăn Giáng Sinh. Ông ta bảo sẽ chọn một con gà tây thật to béo đặc biệt dành cho chúng tôi… và tôi thấy nản lòng. Chúng tôi không thể nhận thịt gà tây đó khi biết đích xác con vật bị giết lấy thịt đặc biệt để cho các vị tăng ni sử dụng. Chúng tôi từ chối không nhận món quà đó. Thế là tôi đành phải quay về với thức ăn của cư dân trong làng – lại cơm nếp với ếch luộc.


Các vị tăng ni không được lựa chọn gì cả khi đến bữa ăn và điều này còn khó khăn hơn là “ăn chay trường”. Tuy nhiên, chúng ta có thể khuyến khích việc ăn rau đậu, và nếu như những vị cư sĩ hộ tăng đem đến cúng dường chư Tăng toàn là thực phẩm rau đậu và không có thịt, thì trong trường hợp đó, các vị sư cũng không phàn nàn. Mong rằng quí vị hiểu cho điều nầy, và hãy đối xử tốt với các loài thú vật.


Tác giả Tỳ kheo Brahmavamso 

Brahmavamso là một tu sĩ người Anh. Ông xuất gia năm 23 tuổi sau khi tốt nghiệp Ðại học Oxford ở Anh quốc. Ông là một trong những vị đệ tử người Tây phương đầu tiên của ngài thiền sư Ajahn Chah, Thái Lan. Hiện nay, ông là vị Tăng trưởng Tu viện Bodhinyana (Giác Minh) và là vị lãnh đạo tinh thần Hội Phật Giáo Tây Úc.


**Bài viết trên giải thích quan điểm của Đức Phật về việc ăn thịt, dựa trên lịch sử và giáo lý Phật giáo. Ngay từ khi đạo Phật được thành lập, các Tăng Ni sống nhờ khất thực và không tự trồng hay nấu ăn, mà ăn những gì được dâng cúng, bao gồm cả thịt cá nếu được cúng dường. Đức Phật đã dạy rằng các Tăng Ni có thể ăn thịt trong ba trường hợp: khi họ không thấy, không nghe, và không nghi ngờ rằng con vật bị giết vì họ. Tuy nhiên, một số loại thịt, như thịt người, thịt voi, và thịt thú rừng nguy hiểm, bị cấm.


Ngoài ra dưới thời đức Phật có đề cập đến việc Devadatta, người anh họ của Đức Phật, đã cố gắng yêu cầu tất cả Tăng Ni phải ăn chay hoàn toàn, nhưng Đức Phật từ chối. Ngài khẳng định rằng Tăng Ni có thể ăn thịt nếu tuân theo các điều kiện đã được quy định. Cuối cùng, bài viết nhấn mạnh rằng các Tăng Ni không được chọn lựa thức ăn và việc ăn thịt không phải là một hành động nuông chiều, mà là tuân theo giáo lý đã được thiết lập.

Ngày nay chúng ta cũng không nhất thiết phải trường chay nhưng dù sao khi không sử dụng thịt hay cá cũng đóng góp trong việc kêu gọi mọi người tránh sát sanh

Bóng Tối và Ánh Sáng

 

Một trong những tầng thánh đạo đầu tiên được gọi là Tu Đà Hườn, hay Đức Phật còn dùng thuật ngữ "dasana", có nghĩa là sơ ngộ, tức lần đầu tiên nhận thấy chân lý.

Trong kinh Chuyển Pháp Luân, Đức Phật có nói: "Này các Tỳ kheo, ngay dưới gốc Bồ đề ta đã nhận ra Bốn đế với những điều mà ta chưa từng nghe."

Nếu không hiểu rõ về Phật pháp, có lẽ sẽ rất ngạc nhiên khi nghe điều này. Bởi lẽ trong các kinh điển, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã trải qua vô số kiếp gặp gỡ nhiều vị thầy và học thuộc lòng nhiều kinh điển. Vậy tại sao Ngài lại nói rằng mình hiểu Tứ Diệu Đế với những chi tiết chưa từng được nghe? Đó là bởi vì trong những kiếp trước, những gì Ngài biết về Tứ Diệu Đế chỉ là những hình ảnh do người khác truyền đạt lại, chưa phải là sự thật mà Ngài tự mình chứng ngộ.

Chúng ta cũng vậy, khi nghe pháp thoại, thường được giảng rằng Tứ Diệu Đế nghĩa là: "Mọi thứ trong đời là khổ, ham muốn điều gì cũng chỉ là tìm kiếm trong khổ, muốn hết khổ thì đừng tìm kiếm trong khổ nữa." Những câu này thường được lặp lại như một câu thần chú, nhưng chúng ta chỉ thực sự hiểu rõ khi bắt tay vào thực hành, khi trở thành hành giả của Tứ Niệm Xứ, ta mới thấm thía tại sao mọi thứ đều là khổ.

Ví dụ, "cái đắng là khổ" thì dễ hiểu, nhưng "cái ngọt cũng là khổ". Tại sao? Bởi vì muốn mà không được là khổ, đi tìm cái ngọt là một hành trình khổ, tìm không được thì khổ, tìm được rồi lại phải bảo quản, bảo quản không được thì khổ. Đó chỉ mới là cái ngọt. Trong cuộc đời chúng ta, có hương vị ngọt ngào nào tồn tại mãi đâu? Tuổi trẻ, sức khỏe, tình cảm, sự nghiệp—chưa kể đến khi cái chết tìm đến, chúng ta sẽ phải tiễn từng người thân đi. Vậy có phải là khổ không?


Chết là điều không thể tránh khỏi, nhưng điều đáng ngại hơn là nếu mình là người cuối cùng còn lại, cảm giác ấy thật khó chịu. Có đôi khi, dù chúng ta cùng chung cha mẹ nhưng tính tình không hợp, ta thường đổ lỗi cho mình là do thiếu phước hay thiếu duyên, nên khi người anh em ra đi, ta không đau lòng. Thật ra, đó chỉ là một cách an ủi bản thân. Thực tế, chúng ta đang sống trong vô minh và ảo tưởng.


Vì thế, mọi sự sanh tử đều bắt nguồn từ việc không hiểu Bốn đế, dẫn đến vô số sự cố và biến cố. Có thể nói rằng tất cả những rắc rối trên thế giới này đều xuất phát từ bóng tối, và mọi giải pháp đều đến từ ánh sáng. Vô minh chính là bóng tối.

Tại sao mọi sự bắt đầu từ bóng tối? Bởi vì muốn giải quyết vấn đề, chúng ta phải làm sáng tỏ mọi sự kiện. Nếu sự kiện chưa được phanh phui, vấn đề sẽ không được giải quyết. Ví dụ, nếu nha sĩ muốn nhổ răng, trám răng, hay niềng răng, họ phải biết rõ về tình trạng của răng. Nếu bác sĩ phẫu thuật muốn mổ, họ phải biết tất cả mọi chuyện về bệnh nhân. Khi chúng ta đi khám bệnh, bác sĩ yêu cầu chúng ta khai thông tin về dị ứng, tiền sử phẫu thuật, tuổi tác… tại sao? Vì ngay cả bác sĩ gia đình cũng cần có kiến thức cơ bản về bệnh nhân trước khi chữa trị. Đó là ánh sáng—khi chưa có ánh sáng, vấn đề sẽ không bao giờ được giải quyết. Điều đáng sợ nhất là khi ta đau mà không biết nguyên nhân. Nhưng chỉ cần bác sĩ chẩn đoán đúng, ta sẽ bớt lo lắng. Khi nguyên nhân đau đã được xác định, vấn đề sẽ được giải quyết. Cả hai điều này đều dựa vào ánh sáng—sự rõ ràng, minh bạch. Chừng nào còn một góc tối chưa được giải quyết, vấn đề vẫn còn tồn tại.

Đó là lý do vì sao chúng ta phải tu tập Tứ Niệm Xứ. Tu tập Tứ Niệm Xứ giúp chúng ta tỉnh thức trong từng phút giây, dù chưa chứng thánh, nhưng thường xuyên sống trong ánh sáng của chánh niệm và trí tuệ. Chỉ khi sống với chánh niệm và trí tuệ, chúng ta mới hiểu được cơ cấu của thân và tâm, hiểu được nó được cấu tạo từ gì và đang hoạt động như thế nào. Ngay cả khi chưa đạt đến giác ngộ, việc thường xuyên sống với nhận thức về 'What' và 'How'(Cái gì và như thế nào) sẽ giúp chúng ta có cuộc sống khác biệt so với người không tu.


Có một câu chuyện thiền như sau:

Một anh ăn trộm đến gặp thiền sư và nói: "Con tình cờ biết đến Phật pháp qua một hoàn cảnh rất lạ. Con là kẻ trộm chuyên nghiệp, định vào chùa để trộm đồ. Nhưng trong lúc con rình, con nghe các thầy nói pháp, nên quyết định bỏ nghề. Nhưng con thật sự không biết phải sống bằng gì nếu bỏ nghề trộm. Nếu con tìm nghề khác thì cũng được, nhưng con sợ mình vẫn không bỏ được máu trộm cắp. Khi đi ngang chỗ nào mà thấy có cơ hội, con lại không dằn lòng được. Xin thầy chỉ con cách bỏ thói quen này."


Vị thiền sư đáp: "Có cách này. Thầy nói thẳng, thực ra ăn trộm không phải chuyện xấu. Quan trọng là con có ăn trộm bằng chánh niệm hay không thôi. Làm gì biết nấy, ăn trộm không phải chuyện xấu, nhưng vấn đề là con có làm điều đó bằng chánh niệm hay thất niệm."


Nghe vậy, anh chàng ăn trộm hỏi: "Ủa, ăn trộm bằng chánh niệm là sao thầy?"


Thiền sư trả lời: "Khi con muốn chôm cái gì, con phải biết rất rõ rằng mình đang muốn làm điều sai trái, biết rõ rằng mình đang từng bước đi vào bóng tối. Khi con nhận thức rõ như vậy, thì cứ thoải mái mà trộm."

Anh ăn trộm suy nghĩ và nói: "Vậy là con vẫn làm nghề trộm được."

Thiền sư đáp: "Được chứ, miễn là con làm đúng như vậy thôi. Luôn nhớ rõ rằng mình đang từng bước đi vào tù, từng bước đi vào bóng tối của cuộc đời, từng bước rơi xuống đáy sâu của xã hội. Chỉ cần nhớ bấy nhiêu, con muốn trộm thì cứ trộm."

Sau đó, khi anh ta định trèo tường để trộm đồ, anh ta nhớ lại lời thiền sư: "Ta đang từng bước vào tù, ta đang lọt vào tầm ngắm của cảnh sát…" Và cứ thế, anh ta ngồi suy nghĩ, cuối cùng không còn muốn trèo tường để tiếp tục công việc trộm cắp nữa.

Anh ta liền tìm đến thiền sư và nói: "Không thể nào mà con có thể làm chuyện đó bằng chánh niệm được." Thiền sư đáp: "Nếu từ đầu thầy nói như vậy, con sẽ không tin. Nhưng giờ con thấy tác dụng của chánh niệm rồi chứ?"

Câu chuyện trên tuy mang tính hài hước nhưng cũng giúp chúng ta hiểu rằng, khi ta hiểu đúng nghĩa của Tứ Diệu Đế, ta sẽ không còn sống trong bóng tối mà hoàn toàn đứng ngoài ánh sáng.

Thiên Lan


** Bài viết được viết lại sau khi nghe bài pháp thoại của sư Toại Khanh. Các bạn có thể lên youtube để nghe nguyên bản của sư hoặc là vào trang nhà của sư với những bài viết có thể rỏ ý của sư hơn. 

Thứ Năm, 29 tháng 8, 2024

Làm sao để chọn lựa mục đích sống?


Một trong những điều quan trọng không chỉ đối với riêng tôi mà có lẽ cả bạn, là việc tìm kiếm đức tin và mục đích trong cuộc sống. Chúng ta thường tự hỏi: "Tại sao ta sinh ra trên thế giới này? Mục đích của ta là gì và ta sẽ làm gì?"

Trong các bài pháp thoại của cố thiền sư Nhất Hạnh ở Làng Mai, ngài thường nhắc đến thế giới của đạo Bụt, nơi chỉ có tâm từ bi và sự buông bỏ những dục vọng thế gian. Qua đó, ngài hướng dẫn chúng ta tìm đến sự bình an nội tại.

Chúng ta đều gặp khó khăn trong việc tìm ra mục đích sống của mình. Vấn đề là chúng ta thường không nhận ra bản thân đang đối mặt với những gì, dẫn đến việc liên tục tìm kiếm lý tưởng nhưng lại mơ hồ, không có sự lựa chọn rõ ràng hay mục đích sống cụ thể. Thực tế, khi bạn đang trăn trở về cuộc sống tương lai và muốn hiểu thêm về đời sống tâm linh, đó là dấu hiệu tích cực cho sự phát triển cá nhân và xã hội.

Nền tảng cho sự lựa chọn mục đích sống, lý tưởng sống hay cách nhìn về cuộc sống được hình thành từ môi trường sống (văn hóa, kinh tế, xã hội, gia đình, học đường,...) nơi chúng ta sinh ra và trưởng thành. Vì vậy, những người sống trong các môi trường khác nhau thường có những cái nhìn khác nhau về cuộc sống và lý tưởng sống. Dù có sự khác biệt, tất cả đều dựa trên các chuẩn mực đạo đức của môi trường đang sống. Việc xác định rõ ràng đâu là mơ ước sống, đâu là lý tưởng sống là một việc rất khó khăn. Chỉ có bản thân mỗi người mới biết rõ điều mình cần và mong muốn, bởi sự hứng thú là yếu tố quan trọng cho những bước khởi đầu trên con đường thực hiện mục đích sống và lý tưởng sống của chính mình. Tuy nhiên, tất cả những lý tưởng cao đẹp đều hướng đến việc hoàn thiện bản thân, phục vụ lợi ích cộng đồng, và hòa hợp giữa lợi ích cá nhân và xã hội.

Trong số những lý tưởng sống đẹp, không thể so sánh cái nào hơn cái nào. Chỉ những hành động cụ thể khi thực hiện những mục đích, lý tưởng ấy mới có thể phản ánh phần nào giá trị của chúng. Nói cách khác, cách chọn lựa hướng đi quan trọng, nhưng cách thực hiện những lựa chọn ấy còn quan trọng hơn nhiều lần. Ví dụ, nếu so sánh nghề giáo viên và nghề thợ rèn, không ai dám khẳng định nghề giáo viên có giá trị hơn nghề thợ rèn. Nếu những người theo đuổi các nghề này đều thể hiện lòng tận tâm ở mức cao nhất, thì giá trị của chúng không khác nhau. Điều quan trọng không nằm ở hình thức của nghề nghiệp mà là lợi ích, niềm vui, và hạnh phúc mà bạn mang lại cho bản thân và những người xung quanh khi thực hiện nghề nghiệp đó.

Đạo Bụt có mặt vì cuộc sống có khổ đau. Nếu không có khổ đau trong cuộc sống, thì đạo Bụt sẽ không tồn tại. Do đó, đạo Bụt luôn phải thay đổi để thích ứng với thực trạng cuộc sống, trở thành một thực thể sống động chứ không phải là một pho tượng cổ. Đã đến lúc chúng ta cần phục hồi lại cái nhìn đúng đắn về đạo Bụt. Đạo Bụt cung cấp những phương pháp chuyển hóa khổ đau, khôi phục lại hạnh phúc trong cuộc sống, và những phương pháp này rất cụ thể, rõ ràng, và khoa học. Chúng ta có thể áp dụng chúng vào cuộc sống hằng ngày. Nếu bạn học và thực tập theo những phương pháp mà Bụt dạy, và cảm thấy tâm hồn mình rộng mở hơn, sự hiểu biết và lòng tha thứ, thương yêu ngày càng lớn, thì tôi tin rằng bạn đang dần bước vào con đường tâm linh mà Bụt đã đi qua.

Thay đổi thói quen đòi hỏi thời gian, sự kiên trì và không được vội vàng. Những thói quen và ham muốn cần được chuyển hóa đã có mặt trong ta từ lâu (có thể do ta huân tập trong đời sống hằng ngày hoặc do tổ tiên truyền lại), nên không thể thay đổi ngay lập tức. Do đó, sự xuất hiện trong tâm bạn những phản ứng khi tiếp xúc với điều mới mẻ có vẻ đi ngược với thói quen của bạn là điều bình thường. Với thời gian, sự chiêm nghiệm và thực tập sẽ giúp bạn dần chấp nhận những điều ban đầu tưởng chừng như không thể chấp nhận được.

Khi bạn hiểu được vấn đề của mình nằm ở đâu, ngay lúc đó, bạn đã có chìa khóa để mở ra cánh cửa bước vào con đường an lạc và hạnh phúc.

Thứ Tư, 28 tháng 8, 2024

Những Nguyên Tắc Đơn Giản Trong Cuộc Sống

Đã bao giờ bạn tự hỏi tại sao dù mình làm việc chăm chỉ và có năng lực, cuộc đời vẫn không thuận lợi và thành công như những người khác? Cuộc sống là một chuỗi các lựa chọn, từ việc chọn lẽ sống, nghề nghiệp, bạn đời cho đến người đồng hành. Mỗi người có con đường riêng, nhưng đều cần tuân theo một vài nguyên tắc chung. Khi bạn đọc được bài viết này, có thể coi đây là một thông điệp từ vũ trụ gửi đến, nhắc nhở bạn về những nguyên tắc sống đơn giản mà có lẽ bạn đã bỏ qua. Những thông điệp này có thể giúp bạn hiểu rõ hơn về bản thân và cách để cải thiện cuộc sống của mình.


1-Trân Trọng Bản Thân: Hãy yêu thương và quan tâm đến bản thân mình. Dành đủ thời gian và không gian để chăm sóc sức khỏe cả về thể chất lẫn tinh thần.


2-Giữ Cân Bằng Cuộc Sống: Đừng để công việc chiếm hết thời gian của bạn. Hãy tìm cách cân bằng giữa công việc và cuộc sống cá nhân, để có thời gian dành cho gia đình, bạn bè, sở thích và những hoạt động thú vị khác.


3-Học Hỏi Và Phát Triển Bản Thân: Luôn tìm kiếm cơ hội để học hỏi và phát triển kỹ năng mới. Đặt mục tiêu và không ngừng cải thiện, cả trong công việc lẫn cuộc sống cá nhân.


4-Đánh Giá Mối Quan Hệ: Quan tâm và xây dựng mối quan hệ tốt với gia đình, bạn bè, và cộng đồng. Hãy chia sẻ cảm xúc, tôn trọng và lắng nghe người khác.


5- Với Mục Đích: Hiểu rõ mục tiêu cuộc sống của mình. Đặt ra các mục tiêu và làm việc hướng tới một cuộc sống có ý nghĩa, mang lại niềm vui cho bản thân và những người xung quanh.


6-Tôn Trọng Và Đối Xử Tốt Với Mọi Người: Luôn cư xử tử tế với mọi người, tôn trọng quan điểm của người khác, không phê phán hay xúc phạm.

7-Quản Lý Tài Chính: Hãy quản lý tài chính một cách thông minh và tiết kiệm. Ưu tiên cho các kế hoạch tài chính và sử dụng tiền một cách có trách nhiệm.

8-Sống Hạnh Phúc Nhưng Có Trách Nhiệm: Tìm cách tận hưởng cuộc sống, nhưng đồng thời phải có trách nhiệm với bản thân và xã hội.

9-Người Xấu Bằng Kết Quả Tồi: Khi bạn duy trì mối quan hệ với những người không tốt, dù đó là bạn bè, người thân hay đối tác làm ăn, kết quả thường sẽ không tốt đẹp. Một mối quan hệ tồi có thể khiến bạn mất tiền, bạn bè, lòng tự trọng, thời gian và sức khỏe. Hãy dứt bỏ những người khiến cuộc sống của bạn xấu đi. Nếu bạn nhận ra mình đang sống không tốt, hãy học hỏi từ những người xung quanh để trở nên tốt hơn.

10-Sống Như Ngày Cuối Cùng: Mỗi sáng thức dậy, hãy nghĩ rằng đó là ngày cuối cùng của bạn. Hãy làm mọi điều với mục đích cải thiện bản thân. Nếu đây là ngày cuối cùng, hãy coi đó là cơ hội để thực hành luật nhân quả của đạo Phật. Hãy suy nghĩ về những nghiệp bạn đã tạo ra, và hãy nhớ rằng cái chết là đích đến cuối cùng của cuộc đời, không cần phải sợ hãi. Hãy thoát ra khỏi những khuôn khổ hạn hẹp để làm những điều quan trọng nhất.

Những nguyên tắc này chỉ là một số ví dụ. Mỗi người có thể có những nguyên tắc riêng để tuân thủ. Điều quan trọng là nhận ra giá trị và ý nghĩa của cuộc sống, đặt ra những nguyên tắc phù hợp để sống một cuộc sống đầy niềm vui và ý nghĩa

Thứ Ba, 27 tháng 8, 2024

Bệnh là một Hiện tượng Tự Nhiên trong Đời Sống

 Mang thân làm người là mang bệnh. Mỗi chúng ta, sớm hay muộn, đều trải qua một hoặc nhiều lần bệnh, không nặng thì nhẹ. Nếu ai đó đến giờ vẫn chưa từng bệnh, đó là một may mắn lớn. Tuy nhiên, ít nhất họ cũng chứng kiến người thân bị bệnh và hiểu rằng mình có thể mắc bệnh vào một lúc nào đó. Vì vậy, bệnh là một hiện tượng rất gần gũi với con người mà ai cũng ít nhiều có kinh nghiệm, dù trực tiếp hay gián tiếp.

Khi nhắc đến bệnh, ai cũng nghĩ đến đau đớn, khổ sở, khó chịu, buồn bã, lo âu, sợ hãi và nhiều trạng thái tâm lý tiêu cực khác. Bệnh là đau đớn, điều này không thể phủ nhận. Nhưng điều quan trọng hơn là, làm sao để dù đau về thân, tâm vẫn không khổ. Có thể bạn sẽ ngạc nhiên và tự hỏi: "Bệnh mà không buồn, không khổ được sao?" Tôi cũng đã từng thắc mắc như vậy, nhưng qua vài lần bệnh, tôi đã tự nghiệm ra những bài học quý giá. Hôm nay, tôi xin chia sẻ với các bạn một số khía cạnh tích cực khi bị bệnh hoặc khi phải sống chung với bệnh.

1. Nhận diện bệnh là cơ hội để lắng nghe cơ thể.

Khi chúng ta mắc bệnh, thay vì buồn bã, suy sụp, hãy nhìn nhận rằng bệnh là điều tất yếu khi chúng ta mang thân người. Bệnh không phải là sự bất công, mà là một phần tự nhiên của cuộc sống. Hãy coi bệnh như cơ hội để cơ thể báo hiệu rằng có gì đó không ổn bên trong. Ví dụ, nếu cảm thấy tức ngực, đó có thể là dấu hiệu cần đi khám bác sĩ. Việc này giúp chúng ta phát hiện và ngăn chặn những bệnh nguy hiểm trước khi quá muộn.

Hầu hết các bệnh đều phát triển từ nhẹ đến nặng và đi kèm với những triệu chứng. Nếu chúng ta biết cách lắng nghe cơ thể, nhận ra những tín hiệu thay đổi kịp thời và xử lý đúng cách, chúng ta sẽ giữ gìn sức khỏe tốt hơn, mang lại hạnh phúc cho bản thân, gia đình và xã hội. Nhiều bệnh nguy hiểm như ung thư vẫn có thể chữa trị nếu được phát hiện sớm. Do đó, khi cơ thể gửi tín hiệu không ổn, đừng buồn mà hãy bình tâm, vì ít nhất chúng ta đã nhận ra và có cơ hội điều chỉnh.

2. Không để tâm lý tiêu cực lấn át.

Thông thường, khi biết mình bị bệnh, chúng ta dễ để tâm lý tiêu cực phát sinh. Bản năng sinh tồn khiến chúng ta không muốn chấp nhận bệnh tật, dẫn đến suy sụp tinh thần và sợ hãi. Tâm lý này chỉ làm bệnh tình trở nên trầm trọng hơn, dù có can thiệp y khoa.

Rất nhiều bệnh và cơn đau xuất phát từ tâm lý căng thẳng, như bệnh tim mạch, huyết áp, và dạ dày. Tâm lý không ổn định dễ dẫn đến rối loạn trong cơ thể và gây ra bệnh. Khi chúng ta bệnh, cần nhận ra rằng cơ thể đang yêu cầu tâm trí được nghỉ ngơi và giảm căng thẳng. Điều này không chỉ giúp mau lành bệnh mà còn phòng ngừa bệnh về sau.

3. Bệnh là dịp để chăm sóc đời sống tâm linh.

Khi khỏe mạnh, chúng ta thường nghĩ rằng mình bất tử, nên không chú ý đến việc chăm sóc đời sống nội tâm. Chỉ khi bệnh tật, chúng ta mới cảm nhận được sự cô đơn, trống vắng và sợ hãi. Lúc đó, chúng ta mới hiểu rằng điều mình thiếu là một tinh thần vững chãi, một nội tâm kiên định để đối mặt với thử thách.

Thật ra, việc chăm sóc tâm thức cần được thực hiện thường xuyên, không chỉ khi bệnh tật. Tuy nhiên, nhiều người chỉ quay về với đời sống tâm linh sau khi bị bệnh. Khi bệnh lần đầu, tôi cũng buồn và nản lòng. Nhưng sau đó, tôi nhận ra rằng tâm lý bi quan không giúp ích gì. Dần dần, tôi học cách sống chung với bệnh và rút ra nhiều kinh nghiệm để làm cuộc sống dễ chịu hơn.


Một quy luật tôi nhận ra là khi tâm bình an, ít dao động, cảm giác đau đớn cũng giảm bớt. Thân bệnh thì thân đau, nhưng không vì thân đau mà tâm phải khổ. Khi tâm gắn với nỗi đau của thân, sự đau khổ ấy sẽ trở nên vô cùng thống thiết và nhức nhối.


4. Bệnh dạy cho chúng ta về vô thường.


Già, bệnh, rồi chết là những giai đoạn tất yếu của đời người. Những hiện tượng này diễn ra không ngừng trong con người và mọi loài vật. Trong mỗi tích tắc, nhiều tế bào trong cơ thể chết đi và tế bào mới được sinh ra. Khi bệnh, chúng ta dễ dàng nhận ra rằng mình đang chuyển giai đoạn.


Nhận thức về vô thường giúp chúng ta biết cách sử dụng thời gian hiệu quả hơn và điều chỉnh các mối quan hệ để có một cuộc sống ý nghĩa hơn. Chỉ những người từng trải qua cơn bệnh hiểm nghèo mới hiểu được giá trị vô giá của sức khỏe, để rồi sau đó họ không phung phí tài sản này.

5. Bệnh giúp chúng ta phát triển lòng từ bi và sự đồng cảm.

Khi bệnh, chúng ta dễ cảm thông với những người cũng mắc bệnh, đặc biệt là những người có bệnh nặng hơn. Trong đau đớn, chúng ta không còn đơn độc, mà cảm thấy mình là một phần của cộng đồng những người bệnh. Nghĩ đến những người cùng chịu nỗi đau, chúng ta dễ dàng trải lòng thương yêu đến cả những người xa lạ.

Nếu chúng ta nuôi dưỡng lòng từ bi, tức là chúng ta đang góp phần giúp người khác vơi đi nỗi đau của họ. Khi chứng kiến bệnh tật, thân nhân của người bệnh cũng mở rộng lòng đồng cảm với những người xung quanh.

Kết luận:

Bệnh tật nhắc nhở chúng ta về những giới hạn của cuộc đời. Khi chứng kiến bệnh tật ở người khác, chúng ta thường nghĩ rằng bệnh chỉ đến với họ mà không phải mình. Nhưng khi chính bản thân hay người thân mắc bệnh, chúng ta mới nhận ra rằng ai cũng chịu sự chi phối của quy luật tự nhiên: già, bệnh và chết( quy luật của đạo Phật).

Nhận thức rằng mình không hơn gì người khác trong quy luật này giúp chúng ta bớt đi lòng kiêu hãnh và trở nên khiêm tốn hơn. Qua một lần bệnh, chúng ta có thể bớt đi lòng tham cầu, biết cách tổ chức cuộc sống hiệu quả hơn và sống một cuộc đời ý nghĩa hơn.


Pháp thoại của pháp sư Tịnh Không 

Thứ Hai, 26 tháng 8, 2024

Hiểu Về Cuộc Sống và Sự Trưởng Thành

Con người được sinh ra để sống cuộc đời mình, nhưng ý nghĩa của cuộc sống đó phụ thuộc vào chính chúng ta. Chúng ta có thể thở, ăn, đi lại, và cuối cùng già đi rồi chết. Nhưng đó không thực sự là "sống". Đó chỉ là sự tồn tại dần dần từ lúc sinh ra cho đến khi chết, giống như một cái chết kéo dài suốt bảy mươi năm.

Bởi vì hàng triệu người xung quanh ta sống theo cách này, nên ta thường bắt chước họ. Trẻ em học từ những người xung quanh, mà những người xung quanh lại chỉ là sự tồn tại chứ không phải sự sống thực sự.

Do đó, điều đầu tiên cần hiểu là: "Sống" có nghĩa gì?

"Sống" không chỉ là việc già đi, mà nó phải là sự lớn lên và trưởng thành. Đây là hai khái niệm hoàn toàn khác biệt. Mọi loài vật đều có thể già đi, nhưng chỉ con người mới có khả năng trưởng thành. Tuy nhiên, rất ít người đạt được sự trưởng thành này.

Trưởng thành là gì ?

Trưởng Thành là lớn lên  có nghĩa là sống mỗi khoảnh khắc sâu sắc trong nguyên lý của cuộc sống. Đó là việc thoát ra khỏi sự chết, không phải tiến dần đến nó. Khi bạn đi sâu vào sự sống, bạn sẽ nhận ra sự bất tử của chính mình. Có lúc bạn sẽ hiểu rằng cái chết không là gì cả—nó giống như việc thay đổi quần áo, nhà cửa, hay hình dáng. Không có gì thực sự chết, và cũng không có gì có thể chết. Cái chết là ảo giác lớn nhất của con người.

Để trưởng thành, hãy nhìn vào cây. Khi cây lớn, rễ của nó phải mọc sâu để chịu đựng được sức nặng. Tương tự, sự trưởng thành là việc mọc sâu vào trong chính bạn.

Với tôi, nguyên lý đầu tiên của cuộc sống là thiền định. Mọi thứ khác đều là thứ yếu. Tuổi thơ là thời điểm đẹp nhất để bắt đầu thiền định, vì khi lớn lên, ta sẽ khó khăn hơn để thực hiện điều này.


Thiền định là hành trình đi vào sự bất tử, vĩnh hằng, và bản chất thiêng liêng của chính bạn. Trẻ em là đối tượng lý tưởng cho thiền định vì chúng chưa bị lấp đầy bởi giáo dục, kiến thức, hay tôn giáo. Chúng ngây thơ, trong sạch, và không nhiễm bất cứ điều gì. Tuy nhiên, sự ngây thơ của trẻ em thường bị coi là không hiểu biết. Ngây thơ và không hiểu biết có vẻ giống nhau nhưng thực ra rất khác biệt. Không hiểu biết là trạng thái không có kiến thức, nhưng ngây thơ là không có kiến thức và không khao khát có nó. Ngây thơ tự nó đã trọn vẹn.


Một đứa trẻ không có tham vọng, không có ước vọng. Nó sống hết mình trong từng khoảnh khắc. Một con chim bay qua, một bông hoa nở, hay một chiếc cầu vồng trên trời có thể khiến nó say mê. Sự ngây thơ là sự tinh khiết, giàu có. Ngược lại, không hiểu biết là nghèo nàn, là khao khát, là muốn có thêm kiến thức, sự tôn trọng, giàu sang, quyền lực.


Khi bạn cảm thấy mình đã đánh mất cuộc sống, điều đầu tiên cần làm là hảy trở Về với sự ngây thơ. Hãy buông bỏ kiến thức, quên đi kinh điển, tôn giáo, triết lý. Hãy sinh ra một lần nữa, trở về với sự ngây thơ. Điều này có thể thực hiện qua thiền định. Thiền định là phương pháp kỳ diệu để cắt bỏ tất cả những gì không thuộc về bạn, để lại con người thực sự của bạn. Thiền định làm tan biến mọi thứ không cần thiết và để bạn đứng đó, như một con người trần trụi dưới ánh mặt trời, sẵn sàng khám phá lại tất cả.

Cuộc sống phải là một hành trình tìm kiếm, không phải là một tham vọng để trở thành ai đó. Điều kỳ lạ là con người thường không biết mình là ai, nhưng lại muốn trở thành một người nào đó. Sự trở thành là căn bệnh của tâm hồn; hiện hữu mới thực sự là bạn. Ngay khi bạn khám phá ra hiện hữu của mình, cuộc sống sẽ bắt đầu. Mỗi khoảnh khắc sống sẽ trở thành một khám phá mới mẻ, một niềm vui mới. Bạn sẽ nhạy cảm hơn, và cả thế giới sẽ trở nên sống động hơn đối với bạn.

Thiền định sẽ mang đến cho bạn sự yên tĩnh hoàn toàn vì mọi kiến thức rác rưởi đã ra đi. Sự yên lặng sâu sắc sẽ trở thành âm nhạc bên trong bạn. Các nhà thần bí đông phương luôn nhấn mạnh rằng các nghệ thuật lớn như âm nhạc, thi ca, hội họa, điêu khắc... đều sinh ra từ thiền định. Các nghệ thuật này là cách mà thế giới không biết thể hiện ra cho thế giới đang biết.

Hảy làm cho cuộc sống phải là một lễ hội liên tục, phải là một lễ hội ánh sáng suốt năm. Chỉ khi bạn trưởng thành, bạn mới có thể biến những cái nhỏ nhặt thành lễ hội. Lễ hội không phải là sự kiện ngoài kia, mà nó phải bắt nguồn từ bên trong bạn. Thiền định sẽ giúp bạn nhạy cảm hơn, giúp bạn cảm thấy kết nối với toàn bộ thế giới. Khi bạn trở nên nhạy cảm, cuộc sống sẽ trở thành một đại dương rộng lớn, và bạn sẽ thấy mình gắn liền với mọi thứ.

Thiền định không chỉ làm cho bạn yên tĩnh mà còn làm cho cuộc sống của bạn trở thành một vũ điệu, một lễ hội không ngừng. Cuộc sống không chỉ là một sự tồn tại đơn thuần, mà nó phải là một khám phá liên tục, một niềm vui không ngừng nghỉ.


Pháp thoại của thiền sư Osho 

Chủ Nhật, 25 tháng 8, 2024

Đối diện với cuộc sống không công bằng

 Cuộc sống không phải lúc nào cũng công bằng, và điều này là một thực tế mà ai cũng phải đối diện. Thay vì than phiền về sự bất công, người thông minh sẽ tìm cách thay đổi cách nhìn nhận của mình về tình huống.

Mary Engelbreit đã từng nói: "Nếu bạn không thích điều gì, hãy thay đổi nó. Nếu bạn không thể thay đổi nó, hãy thay đổi suy nghĩ của bạn về nó." Câu nói này nhắc nhở chúng ta rằng, thay vì để sự bất công làm mình thất vọng, hãy thay đổi cách tư duy để có thể đối diện với nó một cách tích cực hơn.

Từ khi còn nhỏ, có lẽ ai trong chúng ta cũng đã từng trải qua những tình huống bất công. Bạn có thể bị phạt một cách không công bằng khi tranh giành đồ chơi, hoặc nỗ lực hết sức mà vẫn không đạt được điều mình mong muốn, trong khi người khác lại thành công dễ dàng hơn nhờ xuất phát điểm tốt hơn. Những lúc như vậy, cảm giác thất vọng, buồn bực sẽ dễ dàng xuất hiện. Tuy nhiên, việc oán trách cuộc đời chỉ làm tăng thêm căng thẳng cho chính mình và những người xung quanh.

Nhưng sự thật là, cuộc đời vốn không công bằng, và không ai có thể thay đổi điều này. Tỷ phú Bill Gates từng nói: "Cuộc sống vốn dĩ không công bằng. Hãy tập quen dần với điều đó!" Than phiền không giúp bạn giải quyết vấn đề, và chỉ khi bạn chữa lành tâm hồn và từ bỏ suy nghĩ mình là nạn nhân, bạn mới có thể lan tỏa năng lượng tích cực và đối diện với cuộc sống một cách lạc quan.

Phản ứng của chúng ta trước sự bất công là điều tự nhiên. Khi thấy sự công bằng, hệ thần kinh tưởng thưởng trong não bộ được kích hoạt, nhưng khi gặp bất công, vùng Amygdala - nơi gắn liền với cảm xúc sợ hãi và căng thẳng - sẽ bị kích thích, khiến chúng ta dễ dàng tức giận và lo lắng.

Cuộc sống không phải lúc nào cũng công bằng, và bạn có thể gặp những tình huống như làm việc chăm chỉ nhưng không đạt được thành công, mất cơ hội thăng tiến vì người khác, hoặc thấy người thân bị lừa đảo. Những bất công này có thể chỉ là một phần nhỏ so với những gì đang xảy ra trên thế giới.

Đối diện với bất công, bạn có thể đấu tranh mà không gây tổn thương cho chính mình bằng cách kiểm soát cảm xúc, suy nghĩ kỹ lưỡng trước khi hành động, và phân biệt được điều gì có thể và không thể thay đổi. Khi gặp bất công, thay vì suy nghĩ tiêu cực và để nó làm tê liệt bản thân, hãy nhắc nhở mình rằng suy nghĩ mãi không đem lại kết quả gì và cần phải tìm cách thỏa hiệp hoặc thay đổi.

Để suy nghĩ tích cực, bạn cần nhận thức và kiểm soát cảm xúc của mình. Thay vì trách móc và đổ lỗi, hãy tập trung vào việc thay đổi cách nhìn nhận. Cuộc sống luôn có những điều không công bằng, nhưng nếu bạn kiên trì cố gắng và suy nghĩ tích cực, một ngày nào đó bạn sẽ đạt được ước mơ của mình.

Nhận thức được điều gì có thể thay đổi là chìa khóa để đối diện với bất công. Bạn không thể thay đổi quá khứ, nhưng bạn có thể giảm thiểu tác động của nó trong hiện tại. Bạn không thể thay đổi hành vi của người khác, nhưng có thể thay đổi cách ứng xử của mình để truyền năng lượng tích cực. Dù không thể đảm bảo kết quả, nhưng bạn vẫn có thể tạo ra sự khác biệt và không để những điều không thể kiểm soát chi phối bản thân.

Cuộc sống không công bằng, nhưng điều quan trọng là biết cách đối diện và vượt qua nó một cách thông minh.

Thứ Bảy, 24 tháng 8, 2024

Hãy Trở Nên Im Lặng Để Bạn Có Thể Lắng Nghe



Rumi đã từng nói: "Bạn càng trở nên im lặng, bạn càng có thể lắng nghe nhiều hơn." Trong cuộc sống hiện đại, hiếm khi chúng ta dừng lại và để cho sự im lặng bao trùm. Chúng ta luôn bận rộn, luôn di chuyển, luôn lấp đầy mọi khoảng trống bằng công việc, âm nhạc, hoặc thông tin từ điện thoại. Điều này không sai, bởi vì con người thường có xu hướng muốn bận rộn và hiệu quả.

Nhưng nếu chúng ta dành chút thời gian để trở nên im lặng thì sao? Khi đó, một điều kỳ diệu sẽ xảy ra: chúng ta bắt đầu khám phá một cách sống mới và trải nghiệm cuộc sống ở mức độ sâu sắc hơn.

Trở Nên Im Lặng Có Nghĩa Là Gì?

Trở nên im lặng không có câu trả lời đơn giản, nhưng dưới đây là những điều mà tôi đã học được:

Chậm Lại: Hãy dành ít nhất vài phút để chậm lại. Không phải là thiền định, mà chỉ đơn giản là ngồi yên, đến một nơi yên tĩnh, hoặc thực hiện những hoạt động nhẹ nhàng như đi bộ trong thiên nhiên, ngắm hoàng hôn, hoặc nằm trên võng và cảm nhận làn gió.

Ngắt Kết Nối: Hãy tạm rời xa công nghệ, ngừng đọc, ngừng nghe, và ngừng tiêu thụ thông tin. Chỉ cần yên lặng, không cố gắng hoàn thành việc gì, cũng không cần tiêu thụ bất cứ điều gì.

Từ Bỏ Áp Lực Hiệu Suất: Bạn không cần phải cảm thấy hiệu quả, được giải trí, hay đạt được thành tựu. Hãy từ bỏ những áp lực này, ít nhất là trong vài phút, để cho phép bản thân cảm nhận mọi thứ một cách tự nhiên.

Chấp Nhận Cảm Xúc: Trở nên im lặng cũng có nghĩa là cho phép mình cảm nhận mọi cảm xúc mà không cần né tránh. Chúng ta thường làm mọi cách để tránh cảm giác buồn chán, cô đơn, hay buồn bã, nhưng sự im lặng cho phép chúng ta đón nhận những cảm xúc này và tìm thấy sự tự do trong việc chấp nhận chính mình.

Im lặng không phải là điều dễ dàng hay hấp dẫn, nhưng chính trong sự tĩnh lặng, chúng ta sẽ tìm thấy những trải nghiệm sâu sắc nhất của cuộc sống. Bạn sẽ nghe thấy điều gì trong sự tĩnh lặng? Hãy lắng nghe, cuộc sống đang thì thầm với bạn.

Lão Tử đã nói: "Trong sự tĩnh lặng, thế giới được phục hồi." Hãy để sự im lặng phục hồi cuộc sống của bạn.


Tác giả: Leo Babauta

Thứ Sáu, 23 tháng 8, 2024

Hướng dẫn Cách Đối Phó với Sự Nản Lòng

Một trong những rào cản lớn nhất đối với sự phát triển cá nhân của chúng ta chính là sự nản lòng. Dù bạn đang cố gắng tạo thói quen mới (như đọc sách, thiền, tập thể dục, dậy sớm), thực hiện một dự án ý nghĩa, hay đơn giản chỉ là sắp xếp lại cuộc sống, thì sự nản lòng là một trong những nguyên nhân chính khiến bạn dừng bước.

Tin "xấu" là: Sự nản lòng là điều không thể tránh khỏi. Nếu bạn đang làm bất cứ điều gì thách thức hay có ý nghĩa, bạn sẽ gặp phải nó trên con đường của mình. Đây là một phần không thể thiếu của hành trình. Thực ra, điều này không hẳn là tin xấu; nó chỉ là hiện thực của con đường mà bạn đang đi.

Nhưng tin tốt là: Sự nản lòng không phải là vấn đề. Nó là dấu hiệu của quá trình học hỏi, phát triển và nỗ lực. Cũng như mặt trời hay ngọn lửa tỏa ra nhiệt, sự nản lòng là dấu hiệu của sự quan tâm và hy vọng.

Vậy, làm thế nào để chúng ta đối phó với sự nản lòng khi gặp phải nó trên hành trình của mình?

Một số người có thể sẽ dập tắt hy vọng và cố gắng không quan tâm hoặc lạc quan nữa. Họ cho rằng nếu không hy vọng, thì sẽ không bị thất vọng. Nhưng điều này chỉ khiến trái tim họ trở nên khép kín. Tương tự, họ có thể thậm chí không dám thử… vì nếu cố gắng, họ có thể thất bại. Nhưng điều đó có nghĩa là họ đã tự loại bỏ mọi khả năng mới mà họ có thể đạt được.

Cách tốt nhất để đối phó với sự nản lòng không phải là đóng cửa trái tim để tránh khỏi sự cố gắng, quan tâm hay hy vọng… mà là chấp nhận nó như một phần không thể thiếu của hành trình. Giống như việc trái tim bị tổn thương là một phần của tình yêu, hay đau nhức là một phần của việc tập thể dục. Khi chúng ta quan tâm, hy vọng và nỗ lực… sự nản lòng chắc chắn sẽ đến.

Hãy để bản thân cảm nhận nó. Chăm sóc bản thân – liệu bạn có cần một tách trà nóng, một cuộc trò chuyện với bạn bè hay nhà trị liệu, hoặc đơn giản là một chút tình yêu thương không? Hãy xem sự nản lòng như một cơ hội để thực hành yêu thương và chăm sóc bản thân.

Sau đó, hãy quan tâm và thử lại. Mang trái tim của bạn trở lại với hy vọng và khả năng. Thực hiện bước nhỏ tiếp theo. Tạo ra điều gì đó mới, từng bước một.

Sự nản lòng không phải là điểm kết thúc của hành trình — đó chỉ là nơi bạn dừng lại để hồi phục, chăm sóc trái tim, lấy lại sức và sau đó bắt đầu lại.

Bạn có thể vượt qua nó!

Tác giả: Leo Babauta


Bạn có thể đọc nguyên văn bài viết này qua trang blog của tác giả

zen habits - breathe zen habits

Thứ Năm, 22 tháng 8, 2024

Đừng để nỗi buồn xâm chiếm bạn.

Nỗi buồn phiền giống như lưỡi dao sắc bén, khắc sâu những nếp nhăn trên gương mặt của con người.

Sức mạnh của sự sống, ngọn lửa sáng tạo nằm ở tình cảm mãnh liệt và tinh thần dũng cảm.

Trong tiểu thuyết nổi tiếng "Teryssuan-Xenti" của nhà văn Anh Stein, cha của Teryssuan suốt nửa đời người cảm thấy buồn phiền vì tiếng kêu cọt kẹt của chiếc cánh cửa phòng. Thay vì tra vào bản lề vài giọt dầu để loại bỏ sự phiền toái hàng ngày, ông lại cứ để nó tiếp tục làm mình khổ sở. Bạn có thể nghĩ ông ta thật ngớ ngẩn, nhưng nhiều người trong chúng ta cũng đang làm điều tương tự. Chúng ta hiểu rõ rằng nỗi buồn phiền có thể tàn phá cả thân thể lẫn tâm hồn, nhưng vẫn tự nhốt mình trong chiếc lồng tù của nó. Ngày qua ngày, năm qua năm, chúng ta buồn phiền vì đủ thứ chuyện, khó mà có được những khoảnh khắc vui vẻ, niềm vui tràn đầy sức sống. Thay vào đó, chúng ta giữ một vẻ ngoài u buồn, thẫn thờ, để rồi mọi người nhìn vào đã thấy ta già trước tuổi, thấy những nếp nhăn sớm nổi trên trán, giọng nói yếu ớt, bước đi chậm chạp.

Ai cũng biết rằng buồn phiền khắc sâu những nếp nhăn trên gương mặt. Thay vì tìm đủ mọi cách để làm đẹp hay cứu vãn nhan sắc đã phai mờ, hãy vứt bỏ nỗi buồn, đi tìm tiếng cười, niềm vui, và tiếng ca hát. Chính nỗi buồn, chứ không phải lao động hay tạo dựng sự nghiệp, mới là kẻ thù vô hình giết chết chúng ta. Một nụ cười có thể làm bạn trẻ hơn mười tuổi, còn lo lắng có thể khiến tóc bạn bạc nhanh chóng. Goethe từng nói: "Sự phiền muộn và tinh thần cởi mở của một người sẽ định hình số phận của họ!" Sức mạnh của sự sống, ngọn lửa sáng tạo nằm trong tình cảm mãnh liệt và tinh thần dũng cảm, nằm trong khả năng vứt bỏ mọi nỗi đau khổ, buồn phiền. Chỉ khi bạn có sức sống dồi dào và tinh thần sáng tạo mạnh mẽ, bạn mới có thể đạt được số phận tốt đẹp.

Tại sao lại sinh ra buồn phiền vô cớ? Thực ra, nỗi buồn phiền luôn có nguyên nhân: có thể vì bạn quá hẹp hòi, nhìn nhận cuộc sống một cách bi quan; hoặc vì tầm nhìn của bạn quá ngắn ngủi, chỉ thấy khó khăn trước mắt mà không dám tiến bước; hoặc vì bạn mong muốn quá nhiều nhưng không sẵn sàng lao động. Đây là biểu hiện của một cá tính tự khép kín, trì trệ và tham lam. Nỗi buồn phiền đã ăn sâu vào thể xác và tâm hồn của con người, gắn liền với nhịp sinh mệnh của chúng ta theo chu kỳ. Đối với người vui vẻ, họ có thể trải qua 25-27 ngày trong một tháng ở trạng thái tinh thần phấn chấn, trong khi người u sầu chỉ có 2-3 ngày tạm thời ổn định. Sự khác biệt này thể hiện rõ ràng trong thành công của mỗi người.

Có người so sánh nỗi buồn phiền như "tên trộm" lớn nhất trong cửa hiệu tinh thần. Nó cướp đi tinh thần của bạn, làm bạn dần dần trở nên trống rỗng, không còn đủ sức lực để đạt được bất cứ điều gì. Nỗi buồn phiền giống như một hình thức tự sát chậm chạp, làm tiêu hao năng lượng và ý chí sống của bạn.

Làm sao để chữa lành tâm trạng buồn phiền? Dù chưa có thuốc đặc trị, điều quan trọng là bạn phải tự chữa bệnh cho mình. Hãy giải phóng tâm lý, tự giải thoát bản thân! Đừng quá bận tâm vào những ân oán, thù hằn, nợ nần, hay tham vọng không cần thiết. Đôi khi, hãy nhìn cuộc sống một cách thoáng hơn. Người ta nói rằng, người biết "cho đi" sẽ luôn hạnh phúc. Hãy nhìn ra thế giới bên ngoài, nơi đầy màu sắc và cơ hội, thay vì giam mình trong chiếc lồng của chính bạn.

Hãy sống một cách cởi mở, vui vẻ, và mạnh mẽ để đối mặt với mọi khó khăn, để nỗi buồn không còn cơ hội xâm chiếm bạn.

Thứ Tư, 21 tháng 8, 2024

Điều kiện để được vãng sinh về cõi Tịnh Độ

 Vãng sinh về cõi Tịnh Độ của Đức Phật A Di Đà rất dễ dàng không phải là do chúng ta có nhiều công đức mà vì chúng ta được nương vào nguyện lực và lòng từ bi vô biên của Ngài. Tuy nhiên, bản thân chúng ta cũng cần có một chút thiện nghiệp.

Chư Phật đều có cõi Tịnh Độ riêng. Khi chúng ta thành Phật, chúng ta cũng sẽ có cõi Tịnh Độ của mình. Các cõi Tịnh Độ có đặc điểm riêng biệt, tùy thuộc vào tâm nguyện của vị Phật khi còn là một vị Bồ Tát.

Theo quan điểm Đại Thừa Phật giáo, Đức Phật A Di Đà từng là một vị Bồ Tát đã tích lũy vô lượng công đức, thực hành sáu Ba La Mật, tịnh hóa và thiền định qua vô số kiếp. Ngài luôn cầu nguyện để thành tựu Phật quả vì lợi ích của tất cả chúng sinh và tạo ra cõi Tịnh Độ A Di Đà. Nhờ nguyện lực của Ngài, ngay cả những chúng sinh phàm tục chưa phải là Bồ Tát, chưa giác ngộ và còn mang nhiều bất thiện nghiệp cũng có thể được sinh lên cõi Tịnh Độ A Di Đà.

Mặc dù vãng sinh về cõi Tịnh Độ của Đức Phật A Di Đà dễ dàng, điều đó không có nghĩa là chúng ta không cần làm gì và chỉ chờ Đức Phật đến đón. Điều này trái với luật nhân quả. Chúng ta phải tự tạo ra các điều kiện nhân quả để đón nhận sự gia trì của Đức Phật A Di Đà. Sự gia trì của Ngài luôn sẵn có, nhưng chúng ta cần có nhân duyên nhất định để tiếp nhận nó.

Trong kinh A Di Đà, một trong những điều kiện tối thiểu để được vãng sinh về cõi Tịnh Độ của Ngài là không phạm phải trọng tội ngũ nghịch như giết cha, giết mẹ, giết A-la-hán, làm Phật chảy máu, và phá hoại hòa hợp Tăng. Ngoài ra, người đó cũng không nên tạo bất thiện nghiệp do báng Pháp, tức là không được từ bỏ hoặc chỉ trích Phật pháp dưới bất kỳ hình thức nào.

Về các điều kiện tích cực, có ba yếu tố quan trọng mà chúng ta cần tích lũy:

1-Đức tin kiên cố và tâm chí thành: Chúng ta cần có lòng tin kiên cố và tâm chí thành dâng hiến lên Đức Phật A Di Đà và cõi Tịnh Độ của Ngài. Mỗi khi cầu nguyện hay cúng dàng đèn, chúng ta nên hướng về phía Tây và tha thiết cầu nguyện được vãng sinh về cõi Tịnh Độ của Ngài.

2-Thực hành quán tưởng: Chúng ta cần quán tưởng rõ ràng về hình ảnh và các phẩm chất của cõi Tịnh Độ A Di Đà. Việc này đòi hỏi chúng ta phải đọc kỹ kinh A Di Đà và cầu nguyện để có được sự quán tưởng rõ ràng về cõi Tịnh Độ của Ngài.

3-Tâm bồ đề: Nguyện vãng sinh về cõi Tây Phương không phải chỉ để giải thoát cho bản thân, mà để có điều kiện thuận lợi trong việc tu tập, thành tựu giác ngộ, và quay lại giúp đỡ chúng sinh trong cõi Sa Bà này.

Nếu chúng ta viên mãn ba điều kiện trên, không tạo các cực bất thiện nghiệp, và hàng ngày, hàng tối hướng về phương Bắc và phương Tây, miên mật trì tụng chân ngôn hoặc hồng danh của Đức Phật A Di Đà, khi cái chết đến, Đức Phật A Di Đà sẽ đến tiếp dẫn chúng ta về cõi Tịnh Độ của Ngài.


Có nhiều câu chuyện minh chứng cho sự thành tựu vãng sinh về cõi Tịnh Độ này ở Việt Nam cũng như ở vùng Himalaya. Ví dụ, bà ngoại của Đức Pháp Vương hiện đời đã hành trì pháp tu của Đức Phật A Di Đà một cách miên mật. Khi bà qua đời, bà đã thấy Đức Phật A Di Đà đến tiếp dẫn bà về cõi Tịnh Độ của Ngài.


Cõi Tịnh Độ là có thật, và nếu chúng ta thỏa mãn tất cả những điều kiện trên, chắc chắn sẽ được vãng sinh về cõi Tịnh Độ của Đức Phật A Di Đà.




Trích từ Khai thị của Đức Nhiếp Chính Vương Gyalwa Dokhampa 

Tại sao phải thay đổi thói quen

 


Thói quen là những hành động được thực hiện một cách vô thức thông qua việc lặp đi lặp lại mỗi ngày, đôi khi chúng ta không nhận ra hay cân nhắc đến hậu quả tốt hay xấu của chúng. Có những thói quen rất tốt, chẳng hạn như giữ gìn sức khỏe qua việc ăn uống lành mạnh, tập thể dục, lắng nghe pháp thoại để giữ tâm hồn thanh tịnh, hoặc tránh xa những người bạn không tốt. Tuy nhiên, cũng có những thói quen xấu như uống rượu, chơi bài, hút thuốc lá, và lười vận động—những thói quen này không chỉ làm tổn hại sức khỏe tinh thần mà còn ảnh hưởng tiêu cực đến các mối quan hệ xung quanh. Vì vậy, điều quan trọng là chúng ta phải nhận thức rõ thói quen nào nên duy trì và thói quen nào cần phải từ bỏ để có thể trở thành phiên bản tốt nhất của chính mình.

Thói quen thường được hình thành từ môi trường sống và rất nhiều khi bị ảnh hưởng bởi những người xung quanh. Có câu "gần mực thì đen, gần đèn thì sáng" hay "ở bầu thì tròn, ở ống thì dài" để chỉ rằng môi trường và những người ta tiếp xúc có thể ảnh hưởng đến thói quen của chúng ta.

Việc thay đổi thói quen là một thử thách lớn, đòi hỏi rất nhiều nỗ lực và sự kiên trì. Chẳng hạn, nếu bạn muốn có sức khỏe tốt hơn, điều đầu tiên bạn cần làm là xem xét lại chế độ ăn uống của mình. Bạn có đang ăn những thực phẩm không lành mạnh? Bạn có thức khuya thay vì đi ngủ đúng giờ để có một giấc ngủ chất lượng? Những điều này đều cần phải được điều chỉnh.

Chúng ta có rất nhiều cách để sống, như nghe các thiền sư hướng dẫn tu tập, thiền định, nhưng nếu không thực hành, thì những đạo lý này cũng chỉ như "nước đổ đầu vịt".

Có nhiều người đã lầm tưởng  chỉ cần biết thật nhiều những đạo lý thâm sâu tốt đẹp, thì cuộc đời sẽ được cải biến, điều đó có đúng không? Tuy nhiên cho dù bạn đã nghe qua không biết bao nhiêu đạo lý, bất luận là giáo huấn của trưởng bối trong nhà, hay lời nhắc nhở thiện ý của những người xung quanh. Mỗi ngày,trên mạng xã hội, tạp chí và các phương tiện truyền thông, bạn cũng thấy hàng loạt các thông điệp, triết lý của cuộc sống. Đạo lý có ở khắp mọi nơi, ai cũng có thể đọc và hiểu chúng, thế nhưng vì sao không phải ai cũng có một cuộc đời như ý? Bởi vì đạo lý không thể thay đổi cuộc sống của bạn mà chính bản thân bạn phải thực hành những đạo lý này. Thực tế của cuộc sống không nằm trong đạo lý thâm sâu của cổ nhân mà nằm trong bàn tay của bạn. Bạn phải là người áp dụng các đạo lý này vào thói quen hàng ngày của bạn. 

Do đó, đạo lý nếu đứng một mình sẽ không có nhiều tác dụng trong việc thay đổi số phận của con người. Bạn muốn thay đổi số phận thì bạn phải thực hành những đạo lý mà bạn cho là đúng đắn để hoàn thiện bản thân. Đạo lý chỉ là những khái niệm trừu tượng và phổ biến, nhưng cuộc sống thì không giống như vậy. Mỗi người là một cá thể độc lập, không thể sống chỉ dựa vào sự chỉ dẫn của người khác. Khi bạn áp dụng đạo lý của người khác cho bản thân mình, chưa chắc nó đã hiệu quả. Nghe qua hàng ngàn lần đạo lý cũng không bằng thực hành một bước nhỏ để biến đạo lý thành thói quen.

Thói quen tốt là một sức mạnh bền vững và to lớn, có thể kiểm soát cuộc sống. Không ai khi sinh ra đã sở hữu năng lực vượt trội; bí quyết thành công nằm ở những thói quen hằng ngày tích góp từ cuộc sống.

Có người nói: “Gieo suy nghĩ gặt hành động, gieo hành động gặt thói quen, gieo thói quen gặt tính cách, gieo tính cách gặt số phận.” Thói quen chính là nền tảng của vận mệnh, con người sống dựa vào thói quen. Có nghiên cứu chỉ ra rằng: Lặp đi lặp lại một hành động trong 21 ngày sẽ hình thành thói quen, và lặp lại trong 90 ngày sẽ tạo ra một thói quen ổn định.

Một hành động lặp đi lặp lại 21 ngày sẽ trở thành hành động quen thuộc như thói quen, một suy nghĩ lặp đi lặp lại 21 ngày sẽ trở thành suy nghĩ mang tính chất thói quen. Khi thói quen được hình thành, nó sẽ ảnh hưởng đến ý thức tiềm ẩn và hành vi của bạn mà bạn không hề hay biết. Vì vậy, chỉ hành động một lần thì chưa đủ mà cần phải lặp lại nhiều lần để tạo thành thói quen mới.

Hãy thay đổi thói quen xấu, hình thành thói quen tốt, nhớ kỹ đạo lý trong tim và biến nó thành hành động hàng ngày của bạn. Khi bạn sở hữu nhiều thói quen tốt, việc có một cuộc sống tốt đẹp không còn là giấc mơ xa vời.


 

Thứ Ba, 20 tháng 8, 2024

Định nghĩa về tình bạn

 Mỗi người trong chúng ta đều có một định nghĩa riêng cho tình bạn. Có những định nghĩa cao quý cho tình bạn nhưng cũng có những định nghĩa rất đơn sơ mộc mạc. 

 1-Bạn là người có thể thay đổi cả thế giới của bạn, dù chỉ là một phần nhỏ trong đó, mang lại cho bạn nụ cười và chia sẻ cùng bạn những giọt nước mắt

2- Bạn Là người khiến bạn tin rằng vẫn còn điều gì đó tốt đẹp trong cuộc sống, và luôn mở rộng tấm lòng vì bạn.

3-Tình bạn là mối quan hệ cần được xây dựng từ từ và bền vững qua thời gian."

4-Khi bạn sống vô tư, hiền lành, và tốt bụng, luôn giúp đỡ bạn bè, thì bạn sẽ có được những người bạn tốt.

5- Một người bạn tốt sẽ luôn mở rộng tấm lòng, gieo trồng những hạt giống tình cảm, và hạt giống tốt này sẽ trở nên những trái ngọt tình bạn.

6- Hãy giúp đỡ người khác khi có thể, ngay cả khi họ đang lợi dụng bạn. 

7-Bạn là những người tôi thấy thích thú khi trò chuyện... Bạn bè là gia đình mà tôi chọn."

8-Tình bạn như một sợi dây. Cả hai người cùng giữ sợi dây đó, nếu chẳng may dây đứt, ít ra mình cũng nắm được đầu dây bên này. 

9-Tình bạn phức tạp, nhưng luôn quan trọng nhất. Bạn bè thì nhiều, nhưng không biết ai tốt, ai xấu... không biết tình bạn nào sẽ bền vững, sẽ phai nhạt... Nhưng điều quan trọng là phải trân trọng những người bạn hiện có.

10-Tình bạn còn là sự hiểu ý giữa hai người... thật đơn giản nhưng khó diễn tả.

Riêng tôi tình bạn chính là việc tìm kiếm và duy trì mối quan hệ với những người bạn thực sự hiểu và chấp nhận con người thật của mình cho dù là một hành trình đầy thách thức nhưng cũng rất đáng giá. Mỗi người đều có những đặc điểm cá nhân riêng biệt, và không ai hoàn hảo. Điều quan trọng là tìm được những người bạn mà với họ, bạn có thể là chính mình, không cần phải giả vờ hay thay đổi để phù hợp. Sự chân thành và sự chấp nhận lẫn nhau chính là nền tảng của một tình bạn bền vững. Và khi bạn tìm được những người bạn như vậy, hãy trân trọng và giữ gìn mối quan hệ đó, bởi họ là những người sẽ ở bên cạnh bạn qua mọi sóng gió của cuộc đời.

Thứ Hai, 19 tháng 8, 2024

Khi Bản Ngã Thống Trị Tâm Hồn


Chúng ta thường bị cuốn vào những suy nghĩ xuất phát từ bản ngã, nơi mà niềm kiêu hãnh dễ dàng bị đe dọa bởi những tác động nhỏ nhặt. Ban đầu, bạn chỉ cần quan sát hiện tượng này, rồi thử xem liệu mình có thể vượt qua được những so sánh đầy nghi ngờ do bản ngã và nỗi sợ hãi gây ra, để tìm lại con người chân thật của mình.

“Thiện tâm luôn hiện hữu trong mỗi người. Nếu biết lắng nghe và hành động theo tiếng gọi của nó, ta sẽ biết cách làm đẹp cho đời. Điều này không khó nhưng đòi hỏi sự kiên trì và lòng dũng cảm.”

Để thực hiện điều này, hãy bắt đầu bằng cách đơn giản là quan sát xem bạn sử dụng từ “Tôi” bao nhiêu lần trong một ngày và xem bạn đã sử dụng nó như thế nào. Bạn muốn nói điều gì? Nó có ý nghĩa gì? Liệu bạn có đang để bản ngã chi phối suy nghĩ và hành động của mình? Bạn có bao giờ tự hỏi người khác nghĩ gì về mình? Bạn cảm thấy thế nào về họ? Ai giỏi hơn, thành công hơn, hay hấp dẫn hơn?

Khi bắt đầu nhận ra rằng không có gì trên thế gian này là thật mà tất cả đều do tâm trí ta tạo ra, chúng ta sẽ dần thoát khỏi lớp vỏ bọc của bản ngã, trở nên bớt bảo thủ và cởi mở hơn trong việc lắng nghe quan điểm của người khác. Ví dụ, bạn có thể thấy ai đó thú vị và giỏi giang, nhưng người khác lại cho rằng họ chẳng có gì đặc biệt. Thực ra, không ai đúng hay sai hoàn toàn, vì mọi sự vật và hiện tượng đều mang tính chất “tương đối”, tất cả phụ thuộc vào quan điểm cá nhân của mỗi người. “Vạn pháp duy tâm tạo!” Đó là lý do tại sao chúng ta nên cố gắng nói “Tôi nghĩ” hay “Tôi cảm thấy” thay vì khẳng định mọi thứ như một sự thật hiển nhiên. Điều này sẽ giúp chúng ta dễ dàng hơn trong giao tiếp và có khả năng chấp nhận những ý kiến khác biệt.

Khi bản ngã chi phối tâm hồn, nó trở thành rào cản đối với trí tuệ và sự hiểu biết. Dù có vẻ thông minh và sắc sảo, nhưng sâu thẳm bên trong, ta vẫn chỉ là những kẻ khờ dại, không hiểu rõ điều gì thực sự đang diễn ra và đâu là bí mật của cuộc sống. Chúng ta không thể trả lời những câu hỏi quan trọng: Chúng ta là ai, đang làm gì và đâu là hướng đi đúng đắn trong cuộc đời này? Bởi vì chúng ta cứ bước đi trong vô minh và mù quáng, cuộc sống đôi khi giống như một canh bạc. Hiện tại có thể chúng ta đang gặp may mắn và mọi việc diễn ra suôn sẻ, nhưng không ai dám chắc mọi chuyện sẽ tiếp diễn ra sao sau đó. Khi sống như vậy, chúng ta luôn phải đưa ra những dự đoán hạn hẹp. Chúng ta tự thuyết phục bản thân rằng mọi thứ sẽ diễn ra theo ý muốn, mà không dám mở lòng đón nhận bất cứ điều gì có thể xảy ra với mình.

Chủ Nhật, 18 tháng 8, 2024

Tháo gỡ là gì?

 Trong tâm lý học Phật giáo, khái niệm "tháo gỡ" thực sự là một hành trình tinh thần sâu sắc, nơi mỗi bước đi không chỉ là một bước thoát khỏi đau khổ mà còn là một bước tiến về phía sự giác ngộ và an lạc. Đó là quá trình từ bỏ những ham muốn, oán hận và si mê, để tìm đến một trạng thái tâm linh trong sáng và tự do. Sự "Tháo gỡ" này không chỉ giúp cá nhân giải thoát khỏi những ràng buộc của bản thân mà còn mở ra cánh cửa để hiểu biết và yêu thương mọi sinh linh một cách vô điều kiện."Tháo gỡ" mang ý nghĩa tương tự như "giải thoát" có nghĩa là cởi bỏ những ràng buộc, xiềng xích để thoát khỏi những đau khổ, nghịch cảnh, từ đó đạt được sự tự do và không còn bị ràng buộc bởi những khổ đau trong cuộc sống.

Cuộc đời vốn dĩ là đau khổ, và con người luôn phải gánh chịu phiền não. Khi chúng ta có thể tháo gỡ những xiềng xích này, tất cả phiền não sẽ chấm dứt. Còn khi chúng ta vẫn còn đam mê, yêu ghét thì vẫn còn khổ. Trong một buổi pháp thoại, sư Toại Khanh đã đưa ra một ví dụ thực tế: khi chúng ta đi mua sắm, niềm vui đầu tiên là khi mua được những thứ mình thích; niềm vui thứ hai là khi về đến nhà và vứt hết mọi thứ xuống đất, cảm giác nhẹ nhõm và dễ chịu. Như vậy, cả việc mua sắm và buông bỏ đều mang lại niềm vui. Tuy nhiên, với người tu hành, niềm an lạc thực sự là khi buông bỏ hết tất cả những dính mắc.

Trong cuộc sống, không có gì là miễn phí. Để có được niềm vui, con người phải trả một cái giá không hề rẻ. Người tu hành, thay vì tìm niềm vui trong những thú vui trần tục như tình yêu, gia đình, hay tiệc tùng, lại tìm thấy niềm vui trong việc tháo gỡ những dính mắc trong lòng, trong việc buông bỏ những điều mà họ từng cho là quan trọng. Người hiểu đạo sẽ tìm thấy niềm vui trong những nơi chốn xa lạ, những bến bờ mà người phàm phu không muốn đến. Họ hiểu rằng cuộc đời là những ràng buộc, và họ biết cách tháo gỡ những ràng buộc đó để đạt đến sự an lạc tuyệt đối.

Đây là một quá trình chuyển hóa, nơi người tu hành học cách sống một cuộc sống không bị lệ thuộc vào những thứ vật chất hay tình cảm, mà thay vào đó, họ tìm kiếm sự thanh thản và hạnh phúc trong chính bản thân mình và trong mối liên kết với vũ trụ rộng lớn. Đây là một hành trình không chỉ mang lại sự an lạc cho bản thân mà còn là nguồn cảm hứng cho những người xung quanh, tạo nên một chuỗi lan tỏa của sự bình an và tình thương. 

Thứ Bảy, 17 tháng 8, 2024

Ý Nghĩa Của Việc "Sống Tử Tế"

Chúng ta đang sống trong một thế giới phát triển đến mức trí tuệ nhân tạo (AI) có thể thay thế nhiều hành vi và suy nghĩ của con người. Điều này dẫn đến việc chúng ta đôi khi không còn biết đâu là thật, đâu là do AI tạo ra. Các mối quan hệ xã hội ngày càng trở nên phức tạp hơn. Trong bối cảnh đó, việc "sống tử tế" càng trở nên quan trọng, giúp chúng ta giữ được khả năng kết nối chân thật với nhau. Dù thế giới có biến đổi ra sao, tôi luôn tin rằng phẩm chất đạo đức của con người phải được duy trì và bảo vệ, ngay từ những hành động nhỏ nhặt nhất. Hãy cùng tìm hiểu về sự tử tế là gì và tầm quan trọng của nó trong cuộc sống.


Theo định nghĩa, sự tử tế là thái độ cẩn thận, chu đáo, và thận trọng trong lời nói và hành động khi đối xử với những người xung quanh. Người sống tử tế là người có tấm lòng nhân ái, biết tôn trọng bản thân và người khác, có thái độ sống nhân hậu, hòa hợp với thế giới, và đề cao giá trị đạo đức. Họ biết yêu thương và quý trọng những điều nhỏ nhặt, bình thường nhất trong cuộc sống, từ đó tạo nên một lối sống đẹp. Ví dụ đơn giản như việc nhường chỗ trên xe buýt cho người già, trẻ em, hay phụ nữ mang thai cũng là một biểu hiện của sự tử tế.


Sự tử tế không đòi hỏi những hành động vĩ đại như cống hiến cuộc đời mình như mẹ Teresa. Thay vào đó, nó bắt nguồn từ những hành động hằng ngày mà chúng ta thực hiện. Tử tế là một chuẩn mực đạo đức vô cùng quan trọng, là nguyên tắc cần thiết trong giao tiếp và ứng xử giữa con người với con người. Nó mang giá trị cao đẹp và nhân văn sâu sắc.


Dù trong hoàn cảnh nào, sự tử tế luôn cần được đề cao. Nếu một ngày nào đó, sự tử tế không còn hiện diện, mà thay vào đó là những hành động đồi bại tràn lan trong xã hội, thì chính sự tử tế vẫn sẽ là thước đo cho tính đạo đức của xã hội ấy.

Khi chúng ta chọn lối sống tử tế, mỗi người sẽ sống vui vẻ hơn, góp phần tạo nên mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người, và giúp xã hội trở nên tiến bộ, văn minh hơn. Sự tử tế sẽ làm giảm bạo lực và chiến tranh, đồng thời tạo ra nhiều nguồn lực tích cực trong cuộc sống. Chúng ta sẽ biết cho đi nhiều hơn, yêu thương và chia sẻ với nhau nhiều hơn trong mọi vấn đề, mọi tình huống. Lối sống tử tế giúp con người nhận thức rõ ràng về hành động của mình, biết kiểm soát bản thân, và ứng xử với nhau một cách đàng hoàng, tế nhị.

Sự tử tế là một yếu tố quan trọng, không thể thiếu trong nhân cách của mỗi con người. Nó được hình thành từ nhiều yếu tố khác nhau, chịu ảnh hưởng từ môi trường sống trong gia đình, nhà trường, xã hội, và quan trọng nhất là từ sự tự ý thức và nỗ lực rèn luyện của mỗi cá nhân.


Tử tế không phải là bản năng tự nhiên của con người, mà là kết quả của quá trình rèn luyện tích cực. "Sự tử tế, dù nhỏ đến đâu, cũng không bao giờ là lãng phí." Một hành động, một lời nói, cử chỉ, hay đơn giản là một nụ cười cũng có thể thể hiện bạn có phải là người tử tế hay không. Tử tế không chỉ tạo nên giá trị bản thân mà còn khiến bạn được người khác yêu mến và tôn trọng. Thiếu tử tế là một vấn nạn của xã hội, làm mất đi sự lành mạnh và văn minh của cộng đồng. Vì vậy, ngay từ bây giờ, hãy tập sống tử tế với chính mình và với mọi người xung quanh .




Thứ Sáu, 16 tháng 8, 2024

Người đạt giác ngộ hoặc đã tỉnh thức

Sự giúp đỡ chỉ có thể thông qua một vị Phật. Sự giúp đỡ chỉ có thể thông qua người đã tỉnh thức.

Những người mù đang dẫn dắt những người mù khác và họ đã tạo ra mọi loại mê tín dị đoan, thần thoại, tôn giáo. Chỉ có một vị Phật là có khả năng, chỉ có một người đã tỉnh thức, chỉ có một người mà cho đến nay đã thuộc về bạn. Bạn đang ngủ và người ấy tỉnh thức, đó là sự khác biệt duy nhất; không có sự khác biệt nào khác. Người ấy có thể giúp bạn thức tỉnh vì người ấy biết làm thế nào để trở nên tỉnh thức, khó khăn ra sao, những vấn đề nào phải đối mặt. Người ấy hiểu rõ trạng thái của bạn.

Người tỉnh thức là ai? Là người đã biết được đâu là giấc mơ, đâu là không phải giấc mơ. Khi bạn đang ngủ, giấc mơ trông có vẻ thật. Đến sáng khi bạn thức dậy, bạn mới biết rằng nó không có thực. Một vị Phật là người đã thức tỉnh — đã tỉnh thức khỏi cuộc sống này và nhận ra rằng đó chỉ là một giấc mơ. Nếu bạn cũng cảm thấy đau đớn, thất vọng, khổ sở với cuộc sống mộng mị này, cuộc sống vô nghĩa này, chỉ khi đó bạn mới bắt đầu tiến về phía nguồn sáng; nếu không thì không. Đức Phật nói rằng đó là những người được ưu ái.

Hãy nhớ rằng, Phật không phải là một cái tên riêng. Phật đơn giản có nghĩa là người đã tỉnh thức. Bất kỳ ai trở nên tỉnh thức, giác ngộ, đều là Phật. Bạn cũng là Phật; sự khác biệt duy nhất là bạn chưa nhận thức được điều đó. Bạn chưa bao giờ nhìn sâu vào bên trong mình và tìm thấy vị Phật ở đó.

Phật đơn giản có nghĩa là người đã tỉnh thức. Đức Phật Gautama là người tỉnh thức nổi tiếng nhất nhưng điều đó không có nghĩa rằng ngài là người tỉnh thức duy nhất. Đã có nhiều vị Phật trước ngài và sẽ có nhiều vị Phật sau ngài, và miễn là mọi người đều có thể trở thành một vị Phật, sẽ tiếp tục có những vị Phật mới xuất hiện trong tương lai. Bởi vì mọi người đều có tiềm năng … chỉ là chờ đợi đúng thời điểm. Một ngày nào đó, khi bị tra tấn bởi thực tại bên ngoài, trong tuyệt vọng sau khi đã thấy mọi thứ và không tìm thấy gì, bạn sẽ buộc phải quay vào bên trong.

Nếu có một chủ đề duy nhất mà tất cả các vị Phật trên thế giới đồng ý, thì đó là: rằng con người như hiện tại là đang ngủ, và con người như họ nên là thì phải tỉnh thức. Sự tỉnh thức là mục tiêu, và sự tỉnh thức là cốt lõi của mọi giáo lý của họ. Zarathustra, Lão Tử, Chúa Giê-su, Đức Phật, Bahauddin, Kabir, Nanak — tất cả những người tỉnh thức đã dạy một chủ đề duy nhất, trong các ngôn ngữ khác nhau, trong các phép ẩn dụ khác nhau, nhưng bài ca của họ đều giống nhau. Cũng như biển có vị mặn — dù biển được nếm từ phía bắc, phía đông hay phía tây, biển luôn có vị mặn — vị của Phật tính là sự tỉnh thức.

Hãy nhớ chỉ một điều: bản chất cơ bản của bạn là sự im lặng tuyệt đối, sự yên bình, gần như là một trạng thái không có gì, một sự trống rỗng. Và đó là bản chất của bạn, đó là bản chất đã được tỉnh thức về tiềm năng của mình. Nhận thức về nó là trải nghiệm lớn nhất trong cuộc đời, vì nó mang lại sự giải thoát khỏi cuộc sống, sinh tử. Nó đưa bạn ra khỏi vòng luân hồi sinh tử, và mọi đau khổ. Nó đưa bạn vào thế giới của sự ngây ngất, của hạnh phúc vĩnh cửu.

Khoảnh khắc bạn đạt đến trung tâm của mình, bạn không còn tồn tại. Lần đầu tiên bạn tìm thấy gương mặt nguyên thủy của mình. Tôi gọi gương mặt nguyên thủy đó là Phật, người đã tỉnh thức.

Phương Đông gọi gương mặt nguyên thủy đó là Phật, người đã tỉnh thức. Phật chỉ có một phẩm chất duy nhất — chứng kiến. Chứng kiến rằng bạn không phải là cơ thể. Chứng kiến rằng bạn không phải là tâm trí. Chứng kiến rằng bạn không phải là bảy lớp thân thể vi tế phía sau cơ thể, lớp này chồng lên lớp khác. Chứng kiến rằng bạn chỉ là người chứng kiến, và không gì khác — một ý thức thuần khiết.

Chúng ta còn gọi những người đã tỉnh thức bằng một tên khác: paramahansa, con thiên nga vĩ đại, bay một mình vào vô tận và hòa mình vào vũ trụ, trở thành một với vũ trụ — không phải là một phần mà là toàn bộ.

Hãy luôn cẩn trọng, chứng kiến cơ thể, tâm trí. Bạn không phải là chúng. Bạn chỉ là người chứng kiến. Người chứng kiến này được ám chỉ bằng một phép ẩn dụ là Phật, người đã tỉnh thức.

Càng đến gần trung tâm của mình … một sự bình yên lớn dần lên bên trong bạn. Và khi mũi tên ý thức của bạn xuyên qua trung tâm, lần đầu tiên bạn đối mặt với gương mặt nguyên thủy của mình. Tên gọi khác của gương mặt nguyên thủy của bạn là Phật, người đã tỉnh thức. Phẩm chất duy nhất của Phật là chứng kiến.

Ngay tại trung tâm, bạn là Phật, người đã tỉnh thức.

Chính từ Phật đơn giản có nghĩa là sự tỉnh thức.

Hãy sống như một vị Phật. Điều duy nhất cần nhớ là: chỉ cần làm người chứng kiến. Người chứng kiến là chìa khóa chính. Hàng ngàn bậc thầy đã đi đến cùng một kết luận: rằng để ở trung tâm, chỉ cần làm người chứng kiến, là trở thành một vị Phật, người đã tỉnh thức. Sau đó, dần dần thuyết phục vị Phật bước vào cuộc sống bình thường của bạn. Từ các nguồn ẩn giấu, hãy mang ngài đến với các hoạt động hướng ngoại của bạn. Khi nội tâm và ngoại cảnh trở thành một, phép màu đã xảy ra.

Hy vọng duy nhất cho bạn là có liên hệ sâu sắc với ai đó đã tỉnh thức. Người tỉnh thức được gọi là bậc thầy — SATGURU. Nếu bạn có thể tìm thấy một bậc thầy, đừng bỏ lỡ cơ hội — hãy đầu hàng, thư giãn vào sự hiện diện của ngài, thấm nhuần sự tỉnh thức của ngài, để hương thơm của ngài bao quanh bạn. Và ngày đó không còn xa khi bạn cũng sẽ tỉnh thức, bạn cũng sẽ trở thành một vị Phật. Hãy luôn nhắc nhở bản thân rằng trừ khi bạn trở thành một vị Phật, cuộc sống của bạn là sự lãng phí. Chỉ khi trở thành một vị Phật, cuộc đời mới có ân sủng, vẻ đẹp, trí tuệ, ý nghĩa, sự ban phước.

Khi người đã tỉnh thức gõ cửa nhà bạn, xin hãy mở cửa, vì bạn có thể bỏ lỡ cơ hội và bạn có thể bỏ lỡ nó trong nhiều đời nhiều kiếp. Rất hiếm khi gặp được một vị Phật, một Chúa, một Krishna, một Mahavira, một Mohammed. Nếu bạn may mắn gặp được người tỉnh thức, đừng hà tiện. Hãy buông bỏ hoàn toàn, hãy cam kết hoàn toàn.

Mỗi khi một vị Phật đi ngang qua, những người đang ở ranh giới của giấc ngủ cảm thấy rằng có điều gì đó đã xảy ra với người này. Người ấy hành xử khác, nói chuyện khác, sống khác, đi đứng khác. Có điều gì đó đã xảy ra với người này. Những người ở ranh giới có thể cảm nhận được điều đó, nhưng họ đang ngủ. Và ranh giới này không phải là vĩnh viễn. Một lần nữa, họ có thể rơi vào giấc ngủ sâu hơn, nhưng chỉ cần một lời cũng có thể kéo họ ra. Vì vậy, trước khi họ rơi vào trạng thái vô thức sâu hơn, họ có thể đầu hàng người tỉnh thức.

Chỉ có thể được giúp đỡ bởi một vị Phật, bởi người đã tỉnh thức, bởi vì chỉ có người tỉnh thức mới có thể đánh thức những người đang ngủ say. Nếu bạn đang ngủ và nhà phân tích tâm lý của bạn đang ngủ, ai sẽ đánh thức bạn?

Đó chính là ý nghĩa của từ ‘Phật’: một người đã trở nên tỉnh thức, một người đã giác ngộ, một người không còn đang mơ. Và khi bạn không còn mơ, bạn có sự rõ ràng, bạn có thể thấy. Và sự nhìn thấy đó trở thành yếu tố quyết định cuộc sống của bạn. Chỉ khi đó bạn mới làm những gì nên làm và không làm những gì không nên làm. Đó không phải là câu hỏi về sự phân biệt giữa đúng và sai. Đó là câu hỏi về việc thoát khỏi giấc ngủ của bạn. Thức dậy!


Pháp thoại của thiền sư Osho

Hiện Tượng Thời Đại: Ngồi Càng Nhiều, Sống Càng Ít

Các chuyên gia sức khỏe đã cảnh báo rằng ngồi nhiều có thể gây hại cho cơ thể, nhưng nhiều người trong chúng ta chưa hiểu rõ ngồi bao lâu được coi là nhiều, và những hậu quả cụ thể là gì. Vậy tại sao việc ngồi lâu lại khiến tuổi thọ giảm, và làm thế nào chúng ta có thể sống khỏe hơn trong khi vẫn phải ngồi nhiều?

Đối với nhiều người sống ở thành phố, việc ngồi nhiều gần như trở thành một điều không thể tránh khỏi. Chúng ta ngồi khi làm việc, ngồi khi xem TV, ngồi khi giao lưu với hàng xóm, và ngồi khi đi quán cà phê. Điều này đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày. Tuy nhiên, những tác động tiêu cực của việc ngồi lâu đang dần trở nên rõ ràng.


6 Lý Do Ngồi Lâu Gây Giảm Tuổi Thọ

Tăng Tỷ Lệ Mắc Bệnh Tim Mạch và Mạch Máu Não: Khi bạn ngồi quá nhiều, cơ thể ít vận động, dẫn đến giảm chức năng tim mạch và tuần hoàn máu kém, làm tăng nguy cơ mắc bệnh tim và đột quỵ.

Suy Nhược Thần Kinh, Gây Vấn Đề Tâm Lý: Việc ngồi nhiều, đặc biệt là ở những người làm việc văn phòng hoặc học sinh, sinh viên, có thể dẫn đến căng thẳng thần kinh kéo dài, gây suy nhược, đau đầu, và giảm trí nhớ.

Ảnh Hưởng Đến Chức Năng Tiêu Hóa, Tăng Nguy Cơ Ung Thư Đại Tràng: Ngồi lâu làm chậm hoạt động tiêu hóa, dẫn đến các vấn đề như đầy hơi, táo bón, và tăng nguy cơ ung thư đại tràng.

Gây Bệnh Thoái Hóa Khớp và Thiếu Máu Não: Ngồi lâu trong cùng một tư thế gây căng thẳng lên cột sống và các khớp, làm giảm lưu thông máu lên não và có thể gây đau lưng, cứng cổ, và các bệnh liên quan đến cột sống.

Đẩy Nhanh Tuổi Già Của Cột Sống: Ít vận động làm cho cột sống luôn ở trạng thái uốn cong, dẫn đến căng cơ, thoát vị đĩa đệm, và lão hóa nhanh hơn.

Gây Béo Phì và Tiểu Đường: Ngồi lâu cũng dẫn đến tích tụ mỡ, kháng insulin, và tăng nguy cơ béo phì, tiểu đường tuýp 2.

Làm Thế Nào Để Giảm Nguy Cơ Từ Việc Ngồi Nhiều?

Mặc dù ngồi nhiều có thể gây hại cho sức khỏe, nhưng có những cách để giảm thiểu tác động tiêu cực này:

Khi Xem TV: Bạn có thể tập các bài tập nhẹ nhàng như tập tạ nhỏ, xoay người, lắc vòng, hoặc đi bộ tại chỗ thay vì ngồi yên trên ghế.

Khi Làm Việc: Hãy cài đặt chuông nhắc nhở để đứng dậy và vận động nhẹ nhàng mỗi tiếng một lần. Điều này giúp cải thiện tuần hoàn máu và giảm căng thẳng cho cơ thể.

Lời Khuyên: Đừng đánh giá thấp những khoảng thời gian ngắn ngủi mà bạn có thể dành để đứng dậy và vận động. Tích lũy những khoảnh khắc này có thể giúp bạn tránh được nhiều nguy cơ sức khỏe và duy trì vóc dáng.

Việc ý thức được những rủi ro khi ngồi nhiều là bước đầu tiên để bảo vệ sức khỏe. Bằng cách áp dụng những thói quen đơn giản này, bạn có thể sống khỏe hơn dù vẫn phải ngồi nhiều trong cuộc sống hiện đại.

Thứ Năm, 15 tháng 8, 2024

Đừng để hạnh phúc bị lãng quên

Hành trình tìm kiếm hạnh phúc của chúng ta có thể được ví như một hành trình trên trục ngang với vô số điểm đến. Khởi đầu tại điểm A và hướng đến điểm B, nơi mà ta có thể ước muốn đạt được một chứng chỉ Master. Tuy nhiên, khi đã đến B, ta lại cảm thấy nó không mang lại hạnh phúc thực sự, vì vậy ta tiếp tục tìm đến C, cho rằng việc kết hôn với người mình yêu mới là hạnh phúc chân chính. Nhưng chẳng bao lâu sau, ta nhận ra vẫn còn thiếu vài điều kiện nữa để cảm nhận được hạnh phúc trọn vẹn, và có một đứa con xinh xắn mới thực sự là một gia đình hạnh phúc, vì thế ta lại hy vọng ở D.

Ta tiếp tục không an tâm, đặt ra thêm những điều kiện mới như sở hữu một căn nhà lớn, một chiếc xe hơi đời mới, một tài khoản ngân hàng với số dư khổng lồ, hay một vị trí quyền lực được bạn bè kính nể... để đảm bảo hạnh phúc dài lâu. Và như thế, ta cứ lao đi, từ điểm E đến F, rồi G..., nhưng tại mỗi điểm đến, cảm giác hạnh phúc chỉ đến một cách ngắn ngủi. Vài tuần, vài tháng sau, ta lại khao khát những điều kiện hạnh phúc mới. Đôi khi, ta còn tự hỏi liệu hạnh phúc thật sự có nằm ở cuối trục ngang này không.

Cuối trục ngang chính là cuối cuộc đời. Ai dám nói rằng chỉ khi đến cuối đời, ta mới có thể chạm vào hạnh phúc thực sự? Nhưng nếu đúng là như vậy, thì chẳng phải cả cuộc đời ta đã uổng phí khi không ngừng phấn đấu, hy sinh để chỉ được hưởng hạnh phúc trong một khoảnh khắc ngắn ngủi sao?

Thực ra, hạnh phúc hiện diện ở mọi điểm A, B, C, D cho đến X, Y, Z. Giá trị hạnh phúc ở mọi nơi, mọi lúc đều giống nhau về bản chất, nghĩa là A=B=C…=Z. Nhưng làm sao ta biết được điều này khi ta luôn bị thúc đẩy bởi động cơ "bỏ hình bắt bóng" – một thói quen cố hữu của con người?

Chính vì bị mắc kẹt trong những ước mơ chưa đạt được mà ta không thể tận hưởng những hạnh phúc lớn lao ngay trước mắt. Liệu ta có chắc rằng khi đạt được những ước mơ đó, ta sẽ hoàn toàn hạnh phúc? Chúng ta chỉ đang dự đoán mà thôi, bởi vì một năm trước hay hai năm trước, ta cũng đã từng có những ước mơ, và hầu hết những ước mơ đó đã thành hiện thực, nhưng tại sao ta vẫn không cảm thấy hạnh phúc? Thế mà ta vẫn tiếp tục mơ ước, tiếp tục hy vọng như chưa từng biết gì về hạnh phúc.

Nếu ta không biết điều gì khiến mình hạnh phúc ở hiện tại, làm sao ta có thể biết điều gì sẽ khiến ta hạnh phúc trong tương lai? Vậy, ta có cần ước mơ thêm nữa hay nên quay về tiếp nhận những gì mình đang có và hài lòng với nó? Chỉ khi nhận ra giá trị hạnh phúc mà mình đã có sẵn, ta mới biết cách trân trọng và giữ gìn nó. Chỉ khi nào nắm được hạnh phúc thực sự trong tay, ta mới có thể làm cho người khác hạnh phúc một cách bền vững.

Hãy thử ghi xuống những điều kiện hạnh phúc mà ta đang sở hữu, và sẽ thấy rằng một tờ giấy là không đủ, vì càng nhìn lại, ta càng phát hiện có hàng trăm, hàng nghìn thứ quý giá mà từ lâu ta đã bỏ quên. Hạnh phúc hiện diện nhưng không được cảm nhận sẽ trở thành một loại cảm xúc trung tính, một trạng thái bình thường hóa những phẩm chất cảm xúc khi thiếu đi sự nhận thức sâu sắc. Ta thường gọi đó là "xả thọ."

Chính cảm xúc bị bão hòa này khiến ta mau chán những gì mình đang có, mất niềm tin vào những thứ từng mang lại hạnh phúc trong quá khứ. Ta lại tiếp tục giẫm đạp lên hạnh phúc hiện tại để đi tìm hạnh phúc ở nơi xa xôi. Tuy bị lãng quên, nhưng những khả năng mang lại hạnh phúc vẫn còn đó, chỉ cần ta trở về tiếp xúc và nuôi dưỡng, nó sẽ lại bừng lên trong tâm hồn ta.

Nhờ có sự tỉnh thức, ta có thể phục hồi những cảm xúc hạnh phúc đã bị lãng quên, và khi nhận ra những điều kiện hạnh phúc thật sự rất nhiều và gần gũi, ta mới hiểu được rằng "Trời ơi, tôi là người hạnh phúc nhất trên đời!"

Tuy nhiên, trong chúng ta có mấy ai đã thốt lên được câu nói đó? Hầu hết mọi người chỉ nhận ra mình hạnh phúc sau một cơn nguy biến, một tai nạn cận kề tử thần, hay một cuộc chia ly tưởng chừng không bao giờ gặp lại. Nếu không có những sự kiện ấy, họ vẫn miệt mài rong ruổi đi tìm hạnh phúc như chú ngựa hoang phi nước đại về phía chân trời xa xôi.

Đến khi mệt mỏi, chú ngựa hoang dừng lại trên thảm cỏ xanh mướt và bên dòng suối trong mát, chợt cảm thấy bình an và ấm áp. Chú giật mình nhận ra hạnh phúc chính là đây, sao mình lại dại dột giẫm đạp lên nó mỗi ngày để đi tìm trong viễn cảnh xa vời?

Nhưng liệu chú ngựa hoang có dừng lại cuộc hành trình để sống sâu sắc trong hiện tại, hay sẽ tiếp tục lao tới tương lai để tìm kiếm hạnh phúc sau khi đã hồi phục? Ý thức được rằng hạnh phúc chỉ có trong giây phút hiện tại và ngừng chạy theo những điều viển vông là một bước đi quan trọng, nhưng để giữ vững ý thức đó và không bị cuốn vào những cám dỗ phía trước thì không hề dễ dàng. Phải có khả năng và phương pháp nuôi dưỡng cụ thể, vì ý chí thôi chưa đủ.

Không phải ai đến cuối cuộc đời cũng chưa từng biết đến hạnh phúc. Có thể họ đã từng sống trong hạnh phúc, nhưng không giữ nó được lâu. Bởi vì họ không đủ khả năng để đón nhận hạnh phúc một cách sâu sắc, dễ dàng biến mọi thứ trở nên bình thường hóa dù đó là những hạnh phúc lớn lao nhất. Người ta thường gọi đó là sự trêu đùa của số phận.


Vì thế bạn đừng để cho hạnh phúc bị lãng quên!


Pháp thoại sư Minh Niệm


Thứ Tư, 14 tháng 8, 2024

Những Người Bạn Cần Nhớ Đến Trong Cuộc Đời

 

Tôi rất thích bài hát "Người đi qua đời tôi" của cố nhạc sĩ Phạm Đình Chương.

NGƯỜI ĐI QUA ĐỜI TÔI - THÁI THANH | Thần Tượng Của Bao Thế Hệ (youtube.com)

 Bài hát thật buồn, chỉ kể về sự ra đi của người mình yêu. Nhưng trong cuộc đời của mỗi chúng ta, không chỉ có một người mình yêu sẽ rời đi, mà còn nhiều người khác cũng sẽ bước ra khỏi cuộc đời ta vì những lý do nào đó. Khi đối diện với những mất mát này, điều duy nhất chúng ta có thể làm là trân trọng những khoảng thời gian mà họ đã từng xuất hiện trong cuộc đời mình. Hãy cùng tìm hiểu về những người mà chúng ta nên nhớ đến, dù họ còn ở bên cạnh hay đã rời xa.

1. Người bạn thật sự yêu thương:

Hãy nỗ lực để trở thành một nửa của họ, vì nếu họ rời đi, tất cả sẽ trở nên muộn màng.

2.Người bạn có thể tin tưởng:

Giữ mối quan hệ tốt đẹp với họ, vì tìm được một tri kỷ trong đời là điều không hề dễ dàng.

3.Người đã từng giúp đỡ bạn:

Đừng quên thể hiện lòng biết ơn.Nhớ tỏ thái độ cảm kích vì họ đã mang lại sự thay đổi trong cuộc đời bạn.

4.Người đã từng yêu bạn:

Hãy nở một nụ cười cảm kích với họ, vì họ đã giúp bạn hiểu thêm về tình yêu.

5.Người từng ghét cay ghét đắng bạn:

Hãy cười xã giao với họ, vì nhờ họ mà bạn trở nên kiên cường hơn.

6.Người đã từng phản bội bạn:

Hãy nói chuyện với họ, vì nếu không có sự phản bội đó, bạn sẽ không hiểu rõ hơn về cuộc sống này.

7.Người bạn đã từng yêu:

Hãy chúc phúc cho họ, vì khi yêu, bạn từng mong họ được hạnh phúc.Nên nở nụ cười cảm kích với họ vì đã giúp bạn hiểu thêm về tình yêu.

8.Người đã đi qua vội vàng trong cuộc đời bạn:

Hãy cảm ơn họ, vì họ đã mang đến những màu sắc phong phú cho cuộc sống của bạn.

9.Người đã từng hiểu lầm bạn:

Hãy giải quyết những ngộ nhận, vì có thể bạn chỉ có một cơ hội này để giải thích.


Cuối cùng, đối với người bạn đời hiện tại, hãy biết ơn vì họ đã yêu thương và cùng bạn chia sẻ những buồn vui trong cuộc đời. Tất cả những người bạn gặp đều đóng vai trò quan trọng, giúp bạn trưởng thành và hiểu thêm về bản thân cũng như thế giới xung quanh.


Thiên Lan sưu tầm

Thứ Ba, 13 tháng 8, 2024

Hạnh Kham Nhẫn

Chúng ta, với tư cách là những người bình thường, thường mang trong mình nhiều căn bệnh khác nhau. Chỉ khi nào nhận thức được rằng mình đang mắc bệnh, chúng ta mới có thể tìm đến thầy thuốc để chữa trị. Tùy theo loại bệnh, chúng ta sẽ bắt đầu áp dụng các liệu pháp khác nhau. Tuy nhiên, nếu chúng ta không biết mình mắc bệnh gì, làm sao có thể tìm được đúng loại thuốc để chữa trị?

Điều này cũng tương tự như con đường tu học của mỗi Phật tử. Khi ta không nhận thức được nhu cầu tu học của bản thân, chúng ta khó có thể chấp nhận những lời giảng dạy. Trong đời sống, luôn có hai loại người: người tốt và người xấu. Người xấu là người không nhận ra được tam nghiệp (thân, khẩu, ý) của mình, nên họ không chấp nhận những giải pháp mà người khác đề nghị để giúp họ tự chữa trị và giải quyết các vấn đề của bản thân. Đức Phật dạy rằng những người ác khó chấp nhận lời giáo hóa, bởi vì họ giống như những bệnh nhân không nhận thức được mình đang bệnh. Ngược lại, người tốt, trong quá trình hoàn thiện bản thân, đầu tiên là họ nhận ra những vấn đề của mình.

Trong Kinh Pháp Cú, có câu: "Người ngu mà biết mình ngu thì nhờ vậy mà có được trí tuệ. Còn người ngu mà tưởng mình trí thì đó mới thật là kẻ ngu." Câu kệ này có thể hiểu theo một hướng khác: người bệnh mà biết mình bệnh thì có khả năng chữa khỏi bệnh. Còn người bệnh mà cứ tưởng mình khỏe thì không cách nào khỏi bệnh được. Khi ta nhận ra các vấn đề của bản thân, ta mới có thể chấp nhận những giải pháp mà người khác đề nghị. Nhưng nếu ta có vấn đề với thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp, mà không nhận ra thì khó lòng chấp nhận những giải pháp từ người khác.

Câu kệ này, giống như nhiều câu kệ khác trong kinh điển, có thể nhìn qua thấy rất bình thường, ai cũng hiểu được. Nhưng nếu suy ngẫm sâu hơn, chúng ta sẽ nhận ra ý nghĩa sâu sắc hơn của Đức Thế Tôn. Câu kệ không chỉ áp dụng cho đời tu mà còn có giá trị trong cuộc sống thường nhật. Nó không chỉ dành cho người xuất gia mà còn có hiệu quả đối với cư sĩ tại gia.

Chúng ta đi chùa có thể chỉ để cầu phúc, tích lũy công đức cho bản thân. Nhưng có khi một bài pháp, một câu nói của chư tăng lại khiến ta cảm thấy sốc, từ đó không muốn đi chùa hay nghe pháp nữa. Đây là một thiệt thòi lớn, nhất là đối với những Phật tử có lòng tự ái cao, cái tôi lớn. Khi những lời giảng chạm đến lòng tự ái và bản ngã, họ tránh đi nghe pháp hoặc tìm đến một chương trình giảng khác. Đây chính là trường hợp người bệnh không nhận ra mình đang bệnh.

Có một điều mà ít người để ý là khi được khen ngợi, ta thường không có khả năng kham nhẫn.

Chữ "kham nhẫn" thường bị nhiều Phật tử hiểu một cách hẹp hòi, chỉ đơn giản là chịu đựng trước những thử thách cay đắng, nghiệt ngã của cuộc đời, trước những tấn công vào bản ngã của mình. Tuy nhiên, trong kinh điển, "kham nhẫn" có nghĩa rộng hơn nhiều. Nó là sự chịu đựng, sự tăng cường bản năng trước mọi áp lực của phiền não.

Có một sự trùng hợp thú vị về ngữ âm giúp ta dễ nhớ. Trong chữ Hán có chữ "Kham" (堪) và chữ "Cam" (甘) có nghĩa là cam chịu, chịu đựng. Trong tiếng Pali, chữ "khamati" cũng có nghĩa là chịu đựng, kham nhẫn.

Chịu đựng hay dằn lòng trước cám dỗ là kham nhẫn. Chịu đựng trước thử thách nghiệt ngã cũng là kham nhẫn.

Khi được người khác khen mà ta không tự chủ, để lòng mình chìm đắm vào đó, quen với những lời khen ngọt ngào, thì khi bị chê trách, ta sẽ khó chịu nổi. Người lớn, trước những điều ngọt ngào của cuộc đời, nếu có khả năng tự chủ, sẽ có sức mạnh tâm lý để chịu đựng khi gặp phải khó khăn, đắng cay. Đây là một kinh nghiệm tu chứng rất quan trọng.

Những gì Đức Phật dạy, nếu chúng ta chưa có thời gian hay cơ hội tu học, thì khó mà hiểu hết được tôn ý của Ngài. Tất cả lời dạy của Đức Phật đều có ý nghĩa sâu sắc. Chánh niệm tỉnh giác trước mọi hoàn cảnh, dù ngọt ngào hay cay đắng, như Ngài đã dạy trong kinh Tứ Niệm Xứ, có giá trị tuyệt đối. Khi ta có sự bình tĩnh trước vị ngọt, ta cũng sẽ có sự bình tĩnh trước vị đắng. Khi được khen, ta chịu được thì khi bị chê, ta cũng chịu được. Và khi bị nhắc nhở, dạy dỗ bằng cách nghiêm khắc, ta cũng có thể chịu đựng được. Đó là dấu hiệu của sự trưởng thành tâm lý, khả năng chịu đựng trước những sóng gió của cuộc đời. Những cơn bão tố trong cuộc sống luôn bắt đầu từ những cơn gió nhẹ.


Thiên Lan sưu tầm 

Bài viết này sau khi nghe sư Toại Khanh thuyết giảng. Bạn có thể vào các trang youtube hay trang web Toạikhanh.com để đọc thêm. Tùy theo cơ duyên của mỗi chúng ta sẽ hiểu hạnh kham nhẫn như thể nào và thực hành theo.

Thứ Hai, 12 tháng 8, 2024

Kinh Địa Tạng là gì?


Kinh Địa Tạng, hay còn gọi là Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện (tiếng Phạn: Kṣitigarbhasūtra), là một kinh điển quan trọng trong Phật giáo Đại thừa. Kinh này nói về Bồ Tát Địa Tạng Vương, một trong những vị Bồ Tát nổi tiếng và được tôn kính trong Phật giáo Trung Quốc và Việt Nam. Nội dung chính của Kinh Địa Tạng xoay quanh chữ Hiếu, tức là đạo làm con của người còn sống đối với cha mẹ đã qua đời.

Nguồn gốc và ý nghĩa của Kinh Địa Tạng

Kinh Địa Tạng được cho là đã được dịch từ tiếng Phạn sang tiếng Trung vào thế kỷ thứ 7 bởi đại sư Tam Tạng (Śikṣānanda), một nhà sư đến từ Khotan. Tuy nhiên, một số học giả nghi ngờ rằng kinh này có thể có nguồn gốc từ Trung Quốc, do không tìm thấy bản tiếng Phạn nào của kinh này.

Ý nghĩa của Kinh Địa Tạng bao gồm nhiều khía cạnh như:

Lòng hiếu thảo: Không chỉ giữa con cái và cha mẹ, mà còn là trách nhiệm chung đối với tất cả chúng sinh.

Quả báo: Mô tả hậu quả của những hành động xấu mà một người có thể gặp phải.

Công đức: Lợi ích của việc hồi hướng công đức tốt cho tất cả chúng sinh.


Khi đọc tụng kinh Địa Tạng thì sẽ có tác dụng gì? 

 Sẽ được bảo vệ bởi các thần tiên trên trời và rồng thiên.

Sẽ phát triển tâm trí ngày này qua ngày khác.

Sẽ tích lũy được trí tuệ siêu việt.

Sẽ không bao giờ thoái lui khỏi Bồ đề.

Đồ ăn và quần áo luôn sang trọng.

Sẽ không bao giờ mắc bất cứ bệnh gì.

Sẽ tránh xa lũ lụt, hỏa hoạn và thảm họa.

Sẽ không bị ăn trộm hoặc cướp.

Sẽ được mọi người tôn trọng.

Thần và ma sẽ giúp đỡ và hỗ trợ.

Một người phụ nữ có thể tái sinh thành nam giới trong kiếp sau.

Một người phụ nữ có thể được sinh ra làm con gái của vua hoặc tể tướng.

Sinh ra sẽ có những nét ưa nhìn.

Sẽ được đầu thai lên thiên đàng.

Sẽ có thể được đầu thai làm vua.

Sẽ nhận thức được cuộc sống trước đây của họ.

Sẽ nhận được bất cứ thứ gì họ yêu cầu.

Gia đình và người thân sẽ rất vui.

Mọi tai ương, tai nạn đều sẽ được tiêu trừ.

Sẽ thoát khỏi mọi nghiệp xấu.

Sẽ đi bất cứ đâu mà không gặp trở ngại gì.

Sẽ có những giấc mơ êm đềm và bình yên.

Người thân đã khuất sẽ không còn đau khổ nữa.

Sẽ nhận được phúc lành từ kiếp trước.

Sẽ được chư Phật và Bồ tát khen ngợi.

Sẽ trở nên thông minh và có gốc gác tốt.

Sẽ sở hữu một trái tim nhân hậu.

Cuối cùng sẽ chứng ngộ Phật quả.


Những lưu ý khi tụng kinh Địa Tạng

Cũng giống như nhiều bài kinh khác, việc tụng kinh Địa Tạng cũng cần phải thành tâm và có những lưu ý nhất định. Một vài lưu ý cụ thể như sau:

Ai cũng có thể tự mình đọc kinh Địa Tạng bởi bản kinh này phù hợp với tất cả chúng sinh. Bạn có thể tìm hiểu và đọc để hướng tới cái tâm chính thiện và hiếu thảo hơn.

Kinh Địa Tạng là bài kinh khá sâu sắc với nhiều tầng lớp ý nghĩa mà không phải đọc qua vài lần là có thể hiểu và nhớ hết. Do đó bạn nên dành thời gian mỗi ngày đọc tụng và ghi nhớ những lời dạy trong kinh.

Bạn có thể đọc kinh ở nhà, chùa hay bất cứ nơi đâu miễn là nơi yên tĩnh, trang nghiêm không ồn ào, xú uế. Tuy nhiên, tốt nhất là bạn nên tụng kinh ở chùa để có thể thấu đạt ý nghĩa mà bài kinh mang lại. Bởi chùa luôn là chốn trang nghiêm, và có sư thầy giảng dạy.

Khi đọc kinh bạn cần giữ tâm thanh tịnh, thật tâm và tập trung, bạn không được để những yếu tố ngoại cảnh chi phối. Vì thế khi nào thực sự tập trung, thoải mái mới nên tụng kinh.

Trước khi tụng kinh cần chuẩn bị quần áo chỉnh tề đã được giặt sạch sẽ thơm tho, không mặc đồ ngắn và quá sặc sỡ. Súc miệng nước thơm, rửa tay sạch sẽ và tắm rửa trước khi tụng kinh.

Bạn luôn giữ cho lưng thẳng, âm lượng đọc kinh vừa đủ nghe.

Kinh Địa Tạng còn được tụng ở đám tang chứ không riêng gì chùa như một cách để hướng tâm người đã mất vào cõi luân hồi không lưu luyến trần gian.

Kinh Địa Tạng – bài kinh Phật giúp ta loại bỏ sân si, tham lam mang đến sự hướng thiện cho cuộc sống an yên, may mắn. Bài kinh là những giáo lý sâu sắc, các Phật tử nên thực hành theo để đạt nhiều lợi lạc.


Chủ Nhật, 11 tháng 8, 2024

Lời dạy của Trang Tử

Cuộc sống của con người hữu hạn, nhưng lòng tham và dục vọng thì lại vô biên. Trong thế giới xô bồ và đầy cạnh tranh này, để đạt được cuộc sống thảnh thơi, yên bình và nhìn thấu được lòng người, chúng ta có thể học hỏi từ những triết lý sâu sắc của Trang Tử.

Trang Tử (khoảng 365–290 TCN) là một trong những triết gia vĩ đại của Đạo giáo, nổi tiếng với lối sống đơn giản, hài hòa với tự nhiên, và luôn đề cao sự tĩnh lặng trong tâm hồn. Ông chủ trương ẩn dật, xa lánh những ham muốn thế tục, và sống một cuộc sống hòa mình với vũ trụ. Những lời khuyên của Trang Tử vẫn còn nguyên giá trị, dù đã trải qua hàng ngàn năm. Dưới đây là mười đạo lý của Trang Tử, giúp chúng ta suy ngẫm về cuộc đời:

Ngắn ngủi và vô thường: Cuộc đời ngắn ngủi như một giấc mơ, vì thế hãy biết trân trọng những điều quý giá và buông bỏ những tranh chấp vô nghĩa để sống một cuộc đời an yên, vui vẻ.

Sức mạnh từ cơ bản: Giống như chiếc thuyền cần nước và đại bàng cần gió, con người cần bắt đầu từ những điều cơ bản, sống thực tế để đạt được thành công.

Đón nhận phê bình: Con người thường thích nghe lời khen, nhưng những lời phê bình chân thành mới là những điều giúp chúng ta trưởng thành và kiên cường hơn.

Tinh thần mạnh mẽ: Bi kịch lớn nhất là khi tâm hồn chết đi, mất đi ý chí và nhiệt huyết. Hãy luôn giữ tinh thần sống động và tràn đầy năng lượng.

Hiểu biết và giao tiếp: Không thể nói chuyện biển cả với ếch ngồi đáy giếng, hay bàn về băng tuyết với côn trùng mùa hè. Khi giao tiếp, cần hiểu đối tượng và hoàn cảnh để tránh sự bất đồng.

Im lặng là vàng: Người có tài không cần khoe khoang, những người hiểu biết thực sự thường trầm lặng, thể hiện sự uyên thâm qua hành động hơn là lời nói.

Biết đủ: Người biết đủ sẽ không lao vào cuộc đua lợi danh, sống an nhàn và không cảm thấy hối tiếc hay ân hận về những gì đã mất.

Quyết đoán và chuẩn bị: Người không quyết đoán và không có sự chuẩn bị thường dễ rơi vào cảnh khốn khó. Cần phải biết nắm bắt thời cơ và luôn có kế hoạch dự phòng.

Chân thành: Chỉ có sự chân thành mới đủ sức lay động lòng người và tạo nên mối quan hệ bền vững. Hãy luôn giữ sự chân thành trong mọi việc.

Cẩn trọng với lời nói: Những kẻ hay ca tụng người khác trước mặt thường có xu hướng nói xấu sau lưng. Thời gian sẽ phơi bày bản chất của con người, vì thế hãy cẩn trọng với những lời tán tụng.

Những lời dạy của Trang Tử không chỉ là triết lý sống, mà còn là kim chỉ nam giúp chúng ta tìm kiếm sự bình yên trong tâm hồn giữa cuộc đời đầy biến động. Hãy sống giản dị, hòa hợp với tự nhiên, và tìm đến sự thanh thản trong tâm hồn..

Khi Não Bộ Gặp Khó Khăn Trong Việc Lắng Nghe Trái Tim


Nhận Thức Nhịp Tim Không Chính Xác Trong Trầm Cảm, Lo Âu, Và Nghiện Ngập

 

Điểm chính:

Interoception( nội cảm) đề cập đến nhận thức về các trạng thái bên trong cơ thể, chẳng hạn như cảm nhận nhịp tim hoặc cảm giác đói.

Khó khăn với interoception có thể gây ra vấn đề trong việc điều chỉnh các trạng thái bên trong cơ thể.

Một nghiên cứu mới cho thấy khả năng cảm nhận nhịp tim ít chính xác hơn ở những người có nhiều rối loạn khác nhau.

Hãy nhắm mắt lại trong 60 giây và tập trung vào nhịp tim của bạn. Bây giờ hãy chọn một nút trên bàn phím và bấm nút đó mỗi khi bạn nghĩ rằng mình cảm nhận được một nhịp. Bạn có thể phát hiện rõ ràng từng nhịp tim không? Hay bạn cảm thấy như mình đang đoán mò nhiều lúc? Hãy dành một chút thời gian để suy ngẫm về mức độ tự tin của bạn trong việc cảm nhận này.

Khi các nhà nghiên cứu yêu cầu người tham gia thực hiện nhiệm vụ tương tự, họ phát hiện rằng một số người có thể cảm nhận chính xác nhịp tim của họ, trong khi một số người khác thỉnh thoảng không cảm nhận được một vài nhịp hoặc nghĩ rằng họ cảm nhận được những nhịp không xảy ra. Tương tự như vậy, có những vùng não bộ chính tham gia vào việc nhận thức nhịp tim có thể cho thấy hoạt động khác nhau ở từng cá nhân. Những kết quả này gợi ý rằng não bộ có thể lắng nghe trái tim tốt hơn ở một số người so với những người khác. Dựa trên điều này, phòng thí nghiệm của chúng tôi đã thực hiện một nghiên cứu mới để kiểm tra xem liệu những khác biệt này cũng có thể góp phần vào các rối loạn tâm lý hay không.


Interoception--Nội cảm


Khả năng cảm nhận nhịp tim của bạn là một ví dụ về interoception. Điều này đề cập đến nhận thức về các trạng thái bên trong của cơ thể bạn. Một số ví dụ khác về interoception bao gồm cảm giác ở dạ dày và ruột, hoặc cảm giác thay đổi trong việc thở khó, và nhiều cảm giác khác.


Các nhà nghiên cứu đang dần tin rằng interoception có thể đóng vai trò quan trọng trong trải nghiệm cảm xúc. Ví dụ, hãy nhớ lại lần cuối cùng bạn cảm thấy sợ hãi, tức giận hoặc phấn khích. Bạn có cảm thấy nhịp tim đập nhanh? Hơi thở dồn dập? Cảm giác nóng lạnh ở da? Cảm giác khó chịu trong dạ dày? Cơ bắp căng thẳng hay run rẩy? Những cảm giác cơ thể như vậy thường là một phần quan trọng của trải nghiệm cảm xúc. Thực tế, rất khó để tưởng tượng cảm nhận đầy đủ một cảm xúc mà không có chúng.


Interoception cũng có thể quan trọng trong việc điều chỉnh các phản ứng cảm xúc trong cơ thể. Đơn giản mà nói, não bộ cần có thông tin chính xác về cơ thể để có thể kiểm soát nó một cách hiệu quả. Hãy tưởng tượng việc cố gắng kiểm soát cánh tay của bạn nếu bạn không biết nó đang ở đâu. Điều này chắc chắn sẽ rất khó khăn. Tương tự như vậy, có thể khó khăn để não bộ kiểm soát hiệu quả các trạng thái bên trong của cơ thể (ví dụ, để giảm nhịp tim của bạn, hoặc kiểm soát mức độ hormone căng thẳng) nếu nó không nhận biết chính xác cơ thể. Interoception kém có thể giúp giải thích lý do tại sao việc điều chỉnh trạng thái cơ thể thường bị ảnh hưởng trong các rối loạn cảm xúc.


Nghiên Cứu Mới Về Nhận Thức Nhịp Tim


Trong một nghiên cứu mới tại phòng thí nghiệm của chúng tôi, do sinh viên tốt nghiệp Claire Lavalley dẫn đầu, một nhiệm vụ nhận thức nhịp tim đã được thực hiện bởi những người khỏe mạnh và những người mắc trầm cảm, lo âu, rối loạn sử dụng chất kích thích, và/hoặc rối loạn ăn uống. Cũng giống như bạn đã làm khi đọc đầu bài viết này, người tham gia được yêu cầu chú ý đến nhịp tim của họ và nhấn một nút mỗi khi họ cảm nhận được nó. Họ đã thực hiện điều này ba lần với các hướng dẫn khác nhau: một lần họ được phép đoán ("đoán mò"), một lần họ chỉ được phép nhấn nút khi họ chắc chắn rằng mình đã cảm nhận được nhịp ("không đoán mò"), và một lần họ được yêu cầu nín thở để làm cho nhịp tim của họ cảm thấy mạnh mẽ hơn ("nín thở").


Chúng tôi phát hiện rằng độ chính xác trong việc nhận thức nhịp tim là tương tự (và khá thấp) trên tất cả các nhóm trong các điều kiện đoán mò và không đoán mò. Ở những người khỏe mạnh, độ chính xác được cải thiện trong quá trình nín thở khi nhịp tim trở nên mạnh mẽ hơn. Ngược lại, không có nhóm bệnh nhân nào cho thấy sự cải thiện về độ chính xác trong quá trình nín thở. Thú vị thay, nhịp tim tự nó thay đổi tương tự trong phản ứng với việc nín thở ở tất cả các nhóm, và tất cả các nhóm đều báo cáo sự gia tăng về mức độ mạnh mẽ của nhịp tim mà họ cảm nhận.


Vậy điều này có ý nghĩa gì? Nó dường như cho thấy rằng, ở những người khỏe mạnh, não bộ có thể nhận biết thành công khi tín hiệu nhịp tim trở nên mạnh mẽ hơn. Tuy nhiên, ở tất cả các nhóm bệnh nhân, mặc dù tín hiệu nhịp tim đã trở nên mạnh mẽ hơn, não bộ không nhận ra sự thay đổi này hoặc không nhận thức nó khác biệt. Điều này có thể phản ánh một loại sự không linh hoạt trong nhận thức ở bệnh nhân, trong đó tín hiệu nhịp tim luôn được cảm nhận theo cùng một cách, ngay cả khi nó trở nên mạnh mẽ hơn. Một cách khác để suy nghĩ về điều này là, mặc dù các tín hiệu cơ thể đã trở thành những chỉ số đáng tin cậy hơn về nhịp tim trong quá trình nín thở, não bộ vẫn không "tin tưởng" những tín hiệu này ở các nhóm bệnh nhân.

Bước Tiếp Theo

Việc biết rằng vấn đề này tồn tại là một bước đầu tiên quan trọng. Câu hỏi nghiên cứu tiếp theo là liệu chúng ta có thể huấn luyện mọi người để họ giỏi hơn trong việc phát hiện các tín hiệu cơ thể của mình hay không. Một khi chúng ta làm điều đó, chúng ta cũng có thể kiểm tra liệu loại huấn luyện này có cải thiện các triệu chứng lâm sàng khác và giúp bệnh nhân cảm thấy tốt hơn hay không. Đây là một lĩnh vực nghiên cứu mới và đang diễn ra, và chúng tôi hy vọng nó có thể dẫn đến các phương pháp điều trị tâm lý hiệu quả hơn trong tương lai.


Được biên tập bởi Jessica Schrader đăng trên tờ spychology today

Tác giả Tiến sĩ Ryan Smith


Tiến sĩ Ryan Smith là một nhà tâm lý học thực nghiệm và nhà khoa học thần kinh tập trung vào việc tìm hiểu cách não xử lý thông tin. Ông có bằng Thạc sĩ về Khoa học thần kinh và Triết học và bằng Tiến sĩ về Tâm lý học. Trong suốt sự nghiệp của mình cho đến nay, ông đã xuất bản hơn 100 bài báo trên tạp chí được bình duyệt ngang hàng và các chương sách bao gồm nhiều chủ đề, bao gồm nội quan, cảm xúc, ý thức, trí nhớ và ra quyết định. Hiện ông là Phó giáo sư nghiên cứu tại Viện nghiên cứu não bộ Laureate, nơi phòng thí nghiệm của ông nghiên cứu cách xử lý thông tin trong não có thể bị ảnh hưởng trong chứng trầm cảm, lo âu và rối loạn sử dụng chất gây nghiện. Bằng cách khám phá ra sự khác biệt trong cơ chế nhận thức và ra quyết định, phòng thí nghiệm của ông hy vọng sẽ khám phá ra các mục tiêu điều trị mới để cải thiện sức khỏe tâm thần.

Học cách tha thứ

 Trong cuộc sống, không ít lần chúng ta bị tổn thương bởi những người mà ta yêu thương nhất. Điều này thật khó khăn, nhưng việc học cách tha thứ là cần thiết để tiếp tục và tìm thấy hạnh phúc cho chính mình. Tha thứ không chỉ đơn thuần là bỏ qua lỗi lầm của người khác, mà còn là cách giúp họ nhận ra sai lầm và đồng thời giúp bản thân trở nên mạnh mẽ hơn.

Khi chúng ta có thể tha thứ, điều đó đồng nghĩa với việc ta đã bình tĩnh nhìn nhận lại vấn đề và rút ra những bài học quý giá. Tha thứ không chỉ giúp chúng ta vượt qua nỗi đau mà còn giúp tránh khỏi sự oán hận và tức giận khi phải chịu đựng tổn thương trong một thời gian dài.

Có một câu chuyện về sự tha thứ đầy ý nghĩa giữa hai người bạn:

Trong Thế chiến II, hai binh sĩ bị mất liên lạc với đội quân của mình và phải sống sót trong rừng rậm suốt hơn 10 ngày. Vì cùng quê nên họ đã chăm sóc lẫn nhau. Khi thú rừng đã bỏ chạy hết vì chiến tranh, họ may mắn bắt được một con nai để duy trì sự sống. Nhưng ngoài con nai đó, họ không tìm thấy thêm bất kỳ con thú nào khác, nên một chút thịt nai còn lại được người lính trẻ hơn mang theo.

Một ngày nọ, họ chạm trán kẻ địch nhưng may mắn trốn thoát. Khi tưởng đã an toàn, một tiếng súng vang lên và người lính trẻ trúng đạn ở bả vai. Người lính lớn tuổi hơn hoảng sợ, vội chạy đến ôm lấy đồng đội, khóc nức nở và gọi mẹ, mắt mở trừng trừng. May mắn, ngày hôm sau đồng đội đã tìm thấy họ.

30 năm sau, người lính bị thương tiết lộ sự thật rằng ông biết ai đã bắn phát súng đó. Chính là đồng đội của ông, người đã qua đời vào năm ngoái. Khi bị bắn, ông vô tình chạm vào nòng súng nóng của đồng đội, nhận ra rằng người lính kia muốn giữ lại thịt nai để sống tiếp vì mẹ của mình.

Ông nói rằng suốt 30 năm qua, ông giả vờ không biết gì và chưa từng nhắc đến chuyện đó. Chiến tranh quá tàn khốc, và mẹ của người bạn đó cũng đã không kịp đợi con mình quay về. Sau chiến tranh, họ cùng nhau viếng mộ mẹ của người bạn. Khi người lính kia quỳ trước mộ mẹ và cầu xin sự tha thứ, ông đã ngăn không cho anh nói tiếp và khẳng định họ vẫn là bạn.

Khi biết tha thứ lỗi lầm của người khác, ta cũng giải thoát được tâm hồn của chính mình. Như người lính trong câu chuyện này, thay vì ôm lấy hận thù và sống trong đau khổ, ông đã chọn buông bỏ và tha thứ để có một cuộc đời thanh thản.

Biết Trách Ai Đây?

 Khi đọc xong bài viết “Biết Trách Ai Đây?” của sư Toại Khanh là một tùy bút đậm chất suy tư, chất chứa nỗi niềm trước cảnh đời éo le, những...